Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

MỘT LẦN ĐẾN ĐIỆN BIÊN bút ký của Hồng Chiến - CHƯ YANGS SIN số: 213thangs 5 năm 2010




Thế hệ chúng tôi sinh ra trong khói lửa chiến tranh. Tiếng bom gầm đạn rú được nghe nhiều hơn tiếng ru của mẹ. Lớn lên một chút, khi nhận biết được những người xung quanh, bỗng giật mình vì toàn thấy người già và phụ nữ; còn thanh niên trai tráng đã nối gót nhau lên đường cầm súng đánh Mĩ, giải phóng Miền Nam. Hình ảnh những người đàn ông trung niên, phụ nữ không còn đủ tuổi và sức khoẻ để tuyển vào bộ đội thì hàng ngày ra đồng, trên vai họ ngoài cái cày, cái bừa còn có thêm khẩu súng trường K44, sẵn sàng nhả đạn vào bầy quạ sắt đến ném bom phá hoại. Khi máy bay Mĩ đến, người ta lấy ngay cái bừa, cái cày… phương tiện lao động thô sơ của người nông dân Việt Nam làm điểm tựa kê súng  trút đạn lên đầu thù; lũ giặc lái không thể hiểu nỗi, làm sao mà ở đâu cũng có lưới lửa phòng không tầng tầng lớp lớp bủa vây chúng. Còn chúng tôi, mới chục tuổi đầu đã phải chứng kiến bao cảnh thịt nát xương tan: sau mỗi lần dứt tiếng bom nổ là máu người lại đổ, có lần người ta phải chặt cả một bụi tre to để lấy bộ ruột người xấu số bị bom hất lên đó. Các mẹ, các chị nước mắt trộn mồ hôi, dùng hai tay bới đất tìm nhặt từng mảnh vụn thân thể của 37 em học sinh lớp ba và cô giáo đang trong buổi học bị máy bay ném bom trúng vào giữa lớp. Ác liệt là vậy, nhưng cánh trẻ chúng tôi vẫn đến trường, mặc dù đầu phải đội mũ rơm, lưng đeo nùn rơm chống mảnh đạn của quân thù. Những tháng năm còn học cấp một (bậc tiểu họcbây giờ), chúng tôi được làm quen với môn Lịch sử và rất tự hào về truyền thống dựng nước, giữ nước của cha ông với bao chiến công hiển hách. Lớn lên một chút nữa, tôi được biết ngay trong thời đại của mình, lớp cha chú đã có một trận đánh nổi tiếng: “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến thắng ấy không chỉ manh tính quyết định mang lại độc lập tự do cho nửa nước Việt Nam mà còn góp phần to lớn vào sự cáo chung chế độ Thực dân trên toàn thế giới. Điện Biên Phủ - Việt Nam! Tiếng hô đầy ngưởng mộ, tự hào của bè bạn khắp thế giới trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là biểu tượng khích lệ cho các dân tộc bị áp bức vùng lên. Tự hào về ông cha với những chiến công hiển hách đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho non sông đất nước; tự hào về một vùng đất anh hùng với những trận đánh oai hùng, lưu danh  hậu thế và có lẽ vì vậy, tôi đã từng mơ ước được một lần đặt chân tới Điện Biên Phủ, để tận tay bốc một nắm đất thấm máu cha anh, đặt lên bàn thờ tổ tiên với tấm lòng thành kính ngưỡng mộ, biết ơn.
Học chưa xong cấp III, miền Nam được giải phóng với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Nam Bắc sum họp một nhà, cả nước vỡ òa trong niềm vui chiến thắng. Miền Nam trong những ngày đầu được giải phóng là một bãi chiến trường, nơi nào cũng hằn vết bom đạn cày phá. Theo tiếng gọi của Đảng, lớp thanh niên chúng tôi lại rời ghế nhà trường phổ thông vào Nam góp phần xây dựng lại quê hương, chống bọn phản động và đưa ánh sáng văn hoá đến cho người dân Tây Nguyên. Ước mơ về thăm Điện Biên Phủ đành phải gác lại.
Đầu tháng 7 năm 2005, tôi bất ngờ được Hội VHNT Dak Lak cho tham dự đoàn văn nghệ sĩ lên thăm Điện Biên Phủ;Thế là, mơ ước bao nhiêu năm nay bỗng nhiên thành hiện thực. Đoàn có sáu người do NSƯT Vũ Lân làm trưởng đoàn, xuất phát vào một buổi sáng đẹp trời tại Buôn Ma Thuột; rong ruổi đường trường, ngày đi đêm nghỉ, ba ngày sau chúng tôi đến thị xã Sơn La. Ở lại thăm thuỷ điện Sơn La và giao lưu với lãnh đạo địa phương một ngày, đón thêm ba Hội viên dự trại tại đây rồi tất cả cùng kéo nhau lên Điện Biên Phủ. Đường ngoằn ngoèo uốn khúc, cheo leo trên vách núi, như một sợi chỉ mỏng manh vắt qua các sườn đồi leo dần, leo dần lên cao. Bác Vũ Lân ngồi phía trên quay lại thông báo cho mọi người: “Đến đèo Pha Đin rồi đấy”! Mọi người ồ lên, quay mặt qua cửa sổ để nhìn cho rõ. Xe leo đèo, một bên là vách núi, một bên là thung lũng sâu thăm thẳm, như đi trên trời nhìn xuống vậy. Nhà văn Nguyễn Văn Thiện, giáo viên dạy văn trường cấp III Nguyễn Trãi cất tiếng đọc:
“Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát”.
Chịu cho các cụ ta ngày xưa giỏi quá, dốc thế này mà vẫn gánh vác vượt được! Nhạc sĩ Sỹ Hùng ngồi bên cạnh thêm vào: “Khen các cụ thì khen cả ngày!” Ừ cũng phải thôi, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ta chủ yếu dùng sức người là chính. Kéo pháo, vận tải quân tư trang, vũ khí, hậu cần… tất tần tật đều bằng đôi vai người dân công hoả tuyến. Từ miền Thanh Nghệ ra hay đồng bằng trung du Bắc bộ lên, một chiến dịch vận tải rầm rộ được quân và dân ta thực hiện để phục vụ cho chiến dịch. Xe đạp, ngựa và đôi vai con người nối tiếp nhau băng rừng vượt suối, bất chấp mưa rừng, gió núi và cả bom đạn quân thù; nhân dân ta đã làm nên một kỳ tích vận tải thần kỳ, bí mật tuyệt đối, làm cho kẻ thù sửng sốt, khiếp sợ. Chắc chắn các cơ quan tình báo của hai đế quốc - thực dân tham chiến chính thức ở Điên Biên Phủ, không thể hiểu nổi vì sao giữa núi cao, vực sâu như thế mà quân dân ta vẫn vận chuyển được khí tài, lương thực… với một khối lượng khổng lồ mà bọn chúng không hề hay biết. Bọn đề quốc và thực dân, không thể hiểu nỗi là phải, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của người Việt Nam là cuộc chiến tranh nhân dân, mọi người dân nghe theo tiếng gọi của Đảng, đoàn kết xung quanh Đảng và hành động theo sự lãnh đạo của Đảng; đấy là sức mạnh đoàn kết của cả một dân tộc anh hùng cùng chung chí hướng đánh đuổi ngoại xâm.
Lên đến đỉnh đèo dừng lại nghỉ, chúng tôi bước xuống xe hít thở không khí trong lành mát mẻ của núi rừng. Đưa mắt nhìn ra xung quanh chỉ có trời mây và rừng, tuyệt nhiên không một bóng nhà. Tại đỉnh đèo, một bức tượng được khắc khá công phu, cao khoảng 4 mét, hoành tráng ghi lại chiến công vượt đèo của quân dân ta trong chiến dịch Điên Biên Phủ. Hơn chục thanh thiếu niên người dân tộc bản địa, mặc áo Chàm chạy lại vây lấy xe chúng tôi mời mua hàng. Các thứ được mời chào có: dưa, mật ong và những chú ong đang vừa bò, vừa lừ lừ nhìn mọi người. Những con ong chằn to như ngón tay út người lớn, mình mang những khoanh màu đen, xen lẫn màu nâu sẫm, có bộ rằng to, trông dữ tợn được nhốt trong lồng sắt hình chiếc đó đơm tép ở đồng bằng Bắc bộ. Một em trai khoảng hơn chục tuổi nói với tôi: “Ong này ngâm rượu tốt lắm, chỉ cần ba con ngâm một lít rượu là có thể chữa khỏi đau lưng, đau khớp đấy”. Tôi tò mò hỏi lại: “Làm sao em bắt được?” “Nó ở trong lòng đất ấy, chỉ có một cửa ra ngoài thôi, lấy cái này úp vào miệng lỗ, con ong bay ra khỏi tổ tự nhiên chui vào đây, khi thấy nhiều thì đậy miệng rọ lại, lấy mang ra đây bán cho vui thôi.” “Em không đi học à?” “Thầy cho nghỉ hè mà!” Tôi suýt bật cười vì câu hỏi vô duyên của mình và nói với em: “Tây Nguyên của mình loại ong này cũng có, nó độc lắm, có thể đốt chết cả con trâu rồi xé thịt tha về tổ đấy”. “A, loại ong này trong Nam cũng có à, hay quá nhỉ!” Chia tay những người bạn đường hiếu khách, chúng tôi tiếp tục lên đương.
Sáng hôm sau cả đoàn lên thăm Sở chỉ huy chiến dịch của ta đóng trên đỉnh núi. Cánh rừng nguyên sinh còn đây, cây cối cao vút che cho lối mòn dẫn du khách lên thăm căn cứ địa ngày xưa, nay được lát đá đi như dạo trong công viên. Thấy đoàn lên, hơn chục cháu bé người Tày, khoảng chín mười tuổi chạy theo đoàn và rất vô tư, các cháu trở thành thuyết minh riêng cho đoàn. Cứ đến một căn hầm hay một mái chòi lợp cỏ gianh  bên đường, các cháu lại tranh nhau giới thiệu: Đây là chỗ ở của cụ Trần Đạo Thuý, kia là nơi ở của bộ phận thông tin, chiếc hầm này là của Ban cố vấn… Các em cứ hồn nhiên thuyết minh bằng tiếng Việt rất đúng giọng thủ đô, làm anh em văn nghệ sĩ Dak Lak cứ tròn mắt thán phục. Hầm của Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên, được đào xuyên qua lòng một ngọn núi và đứng trên cửa hầm có thể nhìn thấy toàn bộ khu vực lòng chảo cánh đồng Mường Thanh. Cả khu vực chỉ huy được nối với nhau bằng giao thông hào, trong các điểm ở sâu trong lòng núi có cả chỗ ăn nghỉ cho các chiến sĩ bảo vệ và thông tin. Sở chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chỉ một mái lều gianh nhỏ dựng trước cửa hầm, nền đất khá bằng phẳng. Qua lều là căn hầm nền đất, tường đất, chiều ngang hơn một mét, cao khoảng gần hai mét nằm sâu trong lòng núi, không có gạch, hay bê tông, mà tất cả bằng đất; bàn làm việc được kết bằng những nan tre, ghế ngồi đều bằng những cây rừng thân tròn đục lỗ chôn chân xuống đất. Thật tài tình và kỳ diệu khi binh chủng Công binh non trẻ ngày ấy thiết kế, xây dựng được cả một công trình ngầm đồ sộ, chỉ bằng sức người với dụng cụ thô sơ: cuốc, xẻng, xà beng… Hơn 60 năm qua đi, các công trình ấy đến nay chắc chắn vẫn làm cho du khách sửng sốt khi được tận mắt chứng kiến những tác phẩm nghệ thuật quân sự độc đáo này. Không biết những vị khách nước ngoài từng là bại tướng trong chiến dịch này, khi trở lại đây, tận mắt chứng kiến Chỉ huy sở của ta nằm ngay trên đỉnh đầu của họ và chỉ cách hầm chỉ huy địch khoảng 3 km đường chim bay mà không biết; họ sẽ nghĩ gì! Đây đúng là một công trình nghệ thuật về quân sự có một không hai trong lịch sử nhân loại.
(còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI