HẠNH NGỘ
Ghi chép
Năm 1965 tôi đi B. Hai năm sau, Hoàng Trung ở đại đội 309 từ miền Bắc bổ
sung vào, cùng ở tiểu đoàn 401 đặc công Đắk Lắk. Cuối năm 1972 Hoàng Trung đi học
lớp cán bộ tiểu đoàn tại Trường quân chính B3 (Mặt trận Tây Nguyên). Giải phóng
Buôn Ma Thuột, cuối tháng 3 năm 1975, đơn vị tôi từ Lạc Thiện (Lắc) hành quân về
Thị xã, tình cờ chúng tôi gặp nhau, Hoàng Trung là tiểu đoàn trưởng thuộc Trung
đoàn tinh nhuệ của Quân đoàn và đang trong đội hình hành quân thần tốc tiến về
mặt trận Sài Gòn…
Vào buổi sáng,
bất ngờ chúng tôi gặp nhau ở Buôn Ma Thuột. Tay
bắt mặt mừng, tôi đưa Trung về nhà mình. Thấy người nhà tôi tất bật lo cơm khách,
Hoàng Trung bảo:
- Gặp được
nhau là quý, tôi còn ít giờ nữa phải đi rồi, đừng bày vẽ!
- Biết
Trung còn bận việc quân, tôi không để lỡ đâu, cứ bình tâm vui với nhau chút đã
– tôi cắt ngang.
Hoàng Trung
ôn tồn :
- Đơn giản,
gọn nhẹ là được rồi !
Tôi chen luôn
:
- Nhớ hồi
chiến tranh ác liệt, Nguyễn Văn Thiệu từng ra rả trên đài Sài Gòn tuyên bố: “Không
cho một tên Việt Cộng nào ăn bát phở ở thành phố Việt Nam Cộng Hòa”. Thế mà bây
giờ…
Ngồi bên mâm
rượu nhâm nhi với nhau, Hoàng Trung và tôi lại nhớ về những trận đánh, về những
kỷ niệm vui buồn đời lính. Bao tên làng, tên đất, con suối, ngọn đồi… ăm ắp kỷ
niệm một thời gian khổ trên chiến trường Đắk Lắk. Câu chuyện có khi rộ lên xốn
xang sôi nổi, có lúc lại trầm xuống.
Trung vanh
vách kể:
Đêm 10 tháng
5 năm 1970, Tiểu đoàn tập kích điểm chốt đồi Cư M’gar (Quảng Nhiêu). Đồi dốc, có
chỗ anh em mình công kênh, đạp lên vai nhau mà lần mò lên chốt. Lợi dụng
thời cơ tên lính vào đổi gác, tổ Nông Văn Cao thọc sâu mau lẹ theo vào trung tâm
lia thủ pháo, xạc AK , nã B41 phát lệnh trận đánh. Điểm chốt biến thành đồi lửa
bởi hỏa lực của quân ta. Sau 30 phút, ta tung hoành trận địa, diệt sinh lực địch.
Siêu, Thái, Niu đã hy sinh anh dũng. Tôi bị thương, gắng sức lần ra đến rừng, lúc
trời đã bừng nắng thì may gặp anh và mấy đồng chí nữa cáng về đơn vị.
Nguyễn Xuân
Uẩn, đại đội trưởng 307 bị thương, bước cà nhắc tập tễnh ra bìa rừng. Rạng sáng
gặp một bác già Quảng Nhiêu đi lấy củi, Uẩn phân vân lo lắng. Ai dè bác ta tới
cõng, đưa ra đến suối thì gặp anh em mình. Sau giải phóng, Uẩn có về Quảng Nhiêu
hỏi thăm ân nhân, nhưng không tìm ra. Uẩn rất ân hận là lúc bác ấy cõng mình không
kịp hỏi tên, địa chỉ, cho nên bây giờ như mò kim đáy biển. Có vài lần Uẩn về hỏi
thăm, nhưng vẫn không ra tăm tích.
Lục Doanh Pó,
quê Cao Bằng, trắng trẻo đẹp trai, vui tính, hay nói cười liến thoắng. Đơn vị mệnh
danh cho Pó là xạ thủ B41 bắn liên thanh. Khi xuất kích, Pó đeo 6 quả đạn sau lưng,
một quả lắp vào đầu súng. Có trận anh em còn đeo chi viện cho Pó ít quả nữa. Vào
trận, gặp mục tiêu, Pó bắn liên tục mà chính xác. Về kĩ thuật, theo lí thuyết,
người bắn B41 chỉ chịu đựng được tới 2 – 3 phát đạn một lúc là ê ẩm, điếc đặc.
Vậy mà giáp trận, xạ thủ Pó đã nã gấp 2 – 3 lần so với lí thuyết, có bao nhiêu đạn
cũng bắn tới.
Hoàng Văn
Coóng dáng người dong dỏng. Trận tập kích vào sân bay L19 Buôn Ma Thuột, Coóng
có nhiệm vụ dùng hỏa lực B41 bắn lô cốt “chuồng cu” của địch, mở cửa đột phá đầu
cầu. Trận chiến lửa đạn đùng đùng, pháo sáng rực trời. Coóng bị thương vào bụng,
một tay bịt vết thương, dồn sức tựa súng vào rào kẽm gai để bắn nốt phát đạn cuối
cùng.
Hà Đình Tính,
trung đội phó Đại đội 310, quê ở xứ nhãn lồng Hưng Yên, mặt hơi rỗ hoa vừng mà
duyên. Tính hy sinh trong đêm tập kích bọn địch nống ra Đạt Lý. Đánh hết thủ pháo,
súng AK bắn hết đạn, Tính quần nhau với địch giáp lá cà, dùng lê đâm chết nhiều
tên. Hôm sau lính ngụy sống sót, trầm trồ về người Cộng quân ấy.
Tôi hào hứng
tiếp:
Đầu mùa trồng
tỉa năm 1969, đơn vị sản xuất làm rẫy ở vùng buôn Ea M’Droh (H5). Lúc 10 giờ sáng
hôm ấy, bọn biệt kích Trung đoàn 45 lùng sục vào khu vực Tiểu đoàn đóng quân. Một
mũi thọc vô hướng Đại đội 308. Ta bám công sự đánh bật nhiều đợt phản kích của địch.
Hai bên quần nhau quyết liệt. Máy bay L19, OV10, phản lực quần rít ào ào, phụt
hỏa mù đỏ, giội bom, phóng rốc-két, pháo tầm xa nã dồn dập. Bom đạn ran
trời, khói lửa mù đất, được anh em ở cộng sự bên tiếp đạn, Bùi Văn Dòm xả hết 8
băng AK. Trận chiến kéo dài hết ngày. Ta an toàn, đơn vị chuyển quân đi nơi khác.
Cháu Nguyễn
Xuân Mới hồi ấy khoảng 13 – 14 tuổi, ốm nhom. Gia đình cháu ở Quảng Cư (H9), đơn
vị đưa về nuôi dưỡng. Sáng hôm đó Mới ra trông chim coi rẫy cho Tiểu đoàn bộ.
Sau trận đó chẳng biết Mới chạy đâu. Mấy ngày sau anh em mình bám tìm cháu mà
không phát hiện dấu vết gì. Ai cũng lo cháu chết ở đâu, hay địch bắt rồi. Qua
hai tuần lễ, bộ phận đồng chí Uẩn và anh em C.307 đi chuẩn bị chiến trường ở thị
xã về, đến nơi đơn vị đóng quân cũ, anh em phát hiện có bóng người, cảnh giác,
lợi dụng địa hình lên tiếng gọi. Nhận ra tiếng, Mới ào tới. Các chú mừng giàn
giụa nước mắt. Tìm được Mới đưa về đơn vị ai cũng vui mừng. Tiểu đoàn bộ dành
phần ưu tiên để Mới ăn cơm không phải độn khoai sắn, bồi dưỡng cho mau lại sức.
Mới không chịu, nói: “Các chú ăn khoai sắn, cháu ăn riêng cơm như thế sao được!”.
Anh em hỏi những ngày đó Mới đi đâu, ăn gì mà sống nổi? Mới kể rằng:
“Khi nghe đạn nổ rát, cháu tháo dép thọc vào hai bàn tay, cứ thế chui qua cà xơ,
mắc cỡ, bươn đến con suối mà đơn vị hằng ngày lấy nước ăn. Cháu có bám về đơn vị
tìm các chú ngay hôm sau, không ngờ địch còn ở đó, bắn theo. Cháu mau lẹ nằm xuống
bò đi rông tuốt. Ban ngày cháu lẩn vào bụi, tối tìm đến gốc cây to ven suối ngủ,
tránh đạn và thú dữ. Hồi nhỏ cha mẹ cháu có nói con khỉ, con vượn ăn trái gì thì
người ta cũng ăn được, nên cháu bắt chước nó, hái lượm trái cây ăn. Có lần cháu
tìm về rẫy của đơn vị bới rãi khoai lang ăn sống… Nhờ thế cháu mới sống nổi”.
Một lần, tôi
cùng anh em đơn vị đi gùi bắp ở buôn Mùi về tới dốc buôn Ea M’Droh lúc gần trưa.
Lê Văn Mạnh trinh sát đi trước phát hiện địch gài mìn clây-mo. Tôi nghĩ bọn này
phục đã lâu nên căng thẳng, mỏi mệt, lơ là không quan sát thấy lính ta.
Chúng tôi khẩn trương sắp xếp đội hình, tổ chức lực lượng đánh địch, mở đường mà
đi. Mạnh mau lẹ luồn đến, bí mật cắt dây điện, tháo kíp nổ, mang mìn về. Nguyễn
Hữu Viêng quân khí tiểu đoàn, xung phong dẫn một tổ, phối hợp với đồng đội đột
kích phía sau nã đạn xối xả tấn công kẻ thù. Bị ta nện bất ngờ, chúng tá hỏa bươn
mất. Anh em vô sự. Lính mình hồi ấy “ngon” quá, hăng lắm, chẳng ngán hiểm nguy.
Trung bùi
ngùi thổ lộ:
- Biết bao đồng
đội một thời, ai còn giờ ra sao? Người mất chưa quy tập hài cốt, phần mộ… Có người
ngã xuống trong trận sân bay L19, khu kho Mai Hắc Đế, Trung đoàn bộ 45, khu Cơ
giới pháo binh, trung tâm thị xã… không đưa anh em ra được!
Thời gian
qua mau không thể nào điểm hết, chúng tôi đồng cảm buồn thương, nhớ những người
đã mất, nhớ về đồng đội. Vui mừng hàn huyên tâm sự là điều hạnh phúc của người
lính còn lại sau chiến tranh, nay được sống trong cảnh đất nước thanh bình.
Trung hỏi tôi:
- Hiện nay
anh em mình ở Buôn Ma Thuột còn những ai ?
- Rất tiếc
thời gian lưu chân của Trung ít quá, nếu không tôi sẽ đưa đến thăm các “vị” nhà
ở gần đây thôi, còn lác đác à! Trung thấy đấy, ở đâu ta cũng gặp anh em mình một
thời chiến đấu, đủ thứ quân binh chủng, về với cuộc sống đời thường, làm đủ các
ngành nghề: Nuôi heo, buôn bán vặt, hớt tóc, chạy xe ôm… Rời chiến trường ra ta
xốc tới thị trường đa dạng và phong phú. Tuy họ không mang sắc phục quân nhân
nhưng vẫn giữ chất người lính một thời, chẳng quên nhau đâu!
Lính ta cũng
nhiều vẻ: Có người giải quyết tạm ổn kinh tế gia đình, có người còn bươn chải
khó khăn vất vả do bệnh tình, thương tật, tuổi cao sức yếu… Tóm lại là “mỗi cây
mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” kể chi hết…
Thời gian
không còn để thỏa lòng tâm sự. Hoàng Trung đành tạm biệt để lên đường đi công tác
theo kế hoạch đã định. Tôi xiết tay bạn mà nửa mừng nửa tủi. Cánh cửa đóng, động
cơ nổ giòn xe đưa Trung bon bon trên đường về phía cầu 14 hòa nhập với dòng xe
nườm nượp vào lúc 2 giờ chiều, giữa Buôn Ma Thuột gió lành nắng đẹp, bầu trời
xanh trong vời vợi…
Anh Chiến có số điện thoại của Bác Đoàn Viết Doãn không a
Trả lờiXóa