Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2016

CHƯ YANG SIN SỐ XUÂN BÍNH THÂN - 2016, tác giả MAI KHOA THÂU


Tác giả MAI KHOA THÂU



KHÚC TRÁNG CA CỦA NGƯỜI LÍNH
trong bài thơ TÂY TIẾN của Quang Dũng
(Ngữ văn 12)



Quang Dũng sinh năm 1921 và mất năm 1988, ông tên khai sinh là Bùi Bình Diệm, quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây cũ (nay là TP Hà Nội). Ông học đến bậc Trung học ở Hà Nội. Sau Cách mạng Tháng Tám, Quang Dũng tham gia quân đội. Từ sau năm 1954, ông là biên tập viên Nhà xuất bản Văn học.
Quang Dũng là một nghệ sỹ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa - đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình. Để ghi nhận công lao to lớn của ông cho nền Văn học nước nhà, năm 2001, ông được nhà nước xét tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào năm 1948 khi ông rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ niệm gắn bó một giai đoạn dài với đoàn quân Tây Tiến. Đoàn quân Tây Tiến gồm hầu hết những thanh niên Hà Nội hoạt động ở một địa bàn rộng lớn ở vùng biên giới Việt- Lào.
Bấy lâu nay đã có rất nhiều bài giảng hay về bài thơ Tây Tiến. Nhưng chỉ thấy khám phá ở những khía cạnh nghệ thuật, những câu chữ, còn những yếu tố hàng đầu của giảng văn đã bị bỏ qua hoặc né tránh, hoặc hiểu khác nhau dẫn đến cảm thụ toàn bài không giống nhau.
Qua bài viết này tôi xin nêu ra một vấn đề cần hiểu rõ hơn nội dung và tâm trạng của nhà thơ khi bình giảng bài thơ Tây Tiến ở học kì 1 lớp 12, đó là: Nội dung của bài cần khắc sâu cho học sinh hiểu "không có cái bi trong tinh thần bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng". Phải nói đây là một “khúc tráng ca của người lính Tây Tiến”.
Ta hãy đọc đoạn đầu của bài thơ sẽ thấy sự hồi tưởng lại những kỉ niệm của một thời chinh chiến, những cuộc hành quân gian khổ trong điều kiện thiên nhiên vừa khắc nghiệt lại vừa hùng vĩ, thơ mộng. Hào hoa mà anh dũng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đúng là bài thơ Tây Tiến có pha chút hương vị buồn, vị bi. Nhưng ở đây tuyệt nhiên không phải là cái bi lụy, bi thảm, bi thương và lại càng không phải là cái bi của bi kịch. Mà ở đây cái buồn trong bài thơ Tây Tiến không hề toát ra từ nội dung, tư tưởng mà chỉ toát ra từ cảm hứng hoài niệm- mà đã là gọi là hoài niệm xưa nay thì có bao giờ vui. Thêm vào đó, cảm hứng hoài niệm lại được chọn lựa một thể thơ thích hợp để biểu hiện, là thể thơ "thất ngôn trường thiên" với những vần bằng đều đều, lại giữ độc vận trong từng đoạn thơ, khiến nhạc điệu cứ êm ái triền miên (người đọc dễ bị đánh lừa cảm giác). Người đọc đã bị âm điệu êm ái ấy lôi cuốn quyến rũ, huyền hoặc, nên đã lướt qua những câu chữ hết sức quan trọng để đi đến đánh giá bài thơ có cái bi trong tinh thần bi tráng. Thực ra, bài thơ tràn đầy cảm xúc vui tươi, khỏe khoắn lạc quan yêu đời.
Ở bài thơ này, theo tôi cái bi chỉ được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật đối lập, thăng - giáng, để làm nổi bật lên những ngày hành quân gian khổ nhưng lại rất hào hứng, những ngày đóng quân vui vẻ và ý vị, cùng một cái lẽ sống cao cả, đó là: Chết vì dân vì nước của bao chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến anh hùng, theo cách sử dụng ngôn ngữ riêng của nhà thơ Quang Dũng.
Nhà thơ thật khéo léo phân thân để trải nghiệm quá khứ với hiện tại, khiến cho người đọc không để ý phân biệt được không gian và thời gian nghệ thuật trong bài thơ, không nhận ra được tâm thức của nhà thơ, khi nào là trở lại với Tây Tiến và khi nào là đang còn ở trong đơn vị quân đội Tây Tiến, gián tiếp với hồi tưởng: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.../ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi/ ... / Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ/..."
Đúng thật, không biết khi nào thì tâm thức như đang trực tiếp trên đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến, bằng những cảm xúc được tái hiện: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.../ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.../ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ...".
Nhà thơ cũng đã rất khéo léo kết hợp hai phương thức sáng tác, đó là: Phương thức thực tại, và phương thức lý tưởng hóa để làm cho toàn thể bài thơ hài hòa. Bằng bút pháp nghệ thuật hiện thực với bút pháp lãng mạn, dẫn dắt người đọc vào cõi thực hùng vĩ, tráng lệ bên cạnh cõi thơ, cõi mơ bay bổng phiêu diêu. Và đặc biệt nói đến tài năng sáng tạo ngôn ngữ của Quang Dũng, ông không dễ dãi dùng những tiếng thông thường quen thuộc, mà dùng những từ vựng rất "độc" của riêng ông, và điều này ít nhiều đã góp phần làm tăng thêm sự trong sáng của tiếng Việt.
Những câu thơ vừa tình tứ mà tinh nghịch, vừa tài hoa mà dí dỏm, nhưng cũng đầy chất lính vui nhộn mà cũng rất Hà Nội thanh tao. Tất cả những cái đó đã tạo nên cái đôïc đáo, cái kì lạ, cái giọng điệu riêng, cái lung linh huyền ảo của bài thơ, càng soi vào đó ta càng thấy óng ánh những sắc màu diệu kì.
Cùng những dòng hồi tưởng đó, tác giả nhớ lại hình ảnh người lính Tây Tiến, những hình ảnh độc đáo không thể phai nhòa:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn trước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nưa chẳng về xuôi.
Ngay ở câu "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" đã cho ta thấy được sự gian khó và cực kì ác liệt của cuộc chiến tranh. Thời đó đoàn quân Tây Tiến hoạt động trong rừng núi phía tây Bắc bộ nơi biên giới Việt- Lào của nước ta, nơi rừng thiêng nước độc bệnh sốt rét làm cho các chiến sĩ tóc rụng đến nỗi không mọc lại được. Da xanh bủng như tàu lá chuối rừng, ốm yếu, bệnh tật, nhưng tinh thần thì vững vàng. Khí phách thì luôn hiên ngang khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Tinh thần ấy thật mãnh liệt, mãnh liệt cả trong "mộng", mãnh liệt cả trong "mơ". Qua hình ảnh "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới", tôi đặc biệt thích câu này, vì nó đã toát lên được ý chí và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam đó là quyết giữ vững độc lập chủ quyền, luôn luôn nêu cao cảnh giác với kẻ thù, qua sự  thể hiện ý chí quyết tâm của đoàn quân Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Cũng chính từ tình yêu quê hương, yêu đất nước của những chàng trai vừa tròn mười chín đôi mươi trên đất nước Việt Nam nói chung và những chàng trai Hà Nội nói riêng, ra đi chinh chiến làm sao không mang theo trong hành trang của mình hình bóng của một "dáng kiều thơm" nào đó, hoặc cũng chí ít cũng là một nữ y tá, hay một hình bóng của cô dân quân nào đó trên đường hành quân. Một chút lãng mạn như vậy thôi cũng đủ nuôi dưỡng tinh thần người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, hi sinh và điều này cũng là một động lực khiến cho các anh nắm vững hơn cây súng trên tay. Tứ thơ mơ mộng này nằm dọc cấu trúc chung của bài thơ Tây Tiến là ngược- xuôi. Đó là: Ý chí, hành động thì luôn hướng ngược về phía tây Bắc bộ nơi biên cương của Tổ quốc, còn tình cảm thì lưu luyến xuôi về quê hương. Đó là cái hồn, cái tinh thần lạc quan của bài thơ.
Không nói hai câu đầu và hai câu cuối, mở và khép bài thơ ít được ai phân tích rạch ròi. Ta thấy ở đây, đoạn đầu bài thơ là kỉ niệm những ngày đầu hành quân gian khổ và hào hứng. Cứ cách một hình ảnh kỳ vĩ, hiểm trở của núi rừng lại đến một hình ảnh mộng mơ, bay bổng của tâm hồn nghệ sĩ say tìm cảnh lạ, nơi miền đất xa, gần như chiếm ưu thế trong tâm hồn nhà thơ cũng như trong ý nghĩa thẩm mỹ của hình tượng thơ.
Đi dọc bài thơ ta bắt gặp ít nhất là năm lần, nếu không là nụ cười tinh nghịch thì cũng là một vẻ dí dỏm thông minh của những người chiến sĩ Tây Tiến. Ta cũng có thể thấy xuất hiện ít nhất là năm lần hình ảnh của người con gái, biểu tượng của cái đẹp. Và ẩn khuất sau những câu thơ là những tiếng cười sảng khoái qua hình ảnh "Súng ngửi trời"- vì súng có mũi súng giống như một nụ cười sảng khoái: ví như khi người lính ăn mừng chiến thắng thì thường chĩa súng lên trời làm một băng liên thanh, đó là một cách thể hiện niềm vui sướng của người lính thời chiến.
Bằng nghệ thuật điêu luyện, Quang Dũng đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, với tinh thần bi hùng cao quý và niềm lạc quan yêu đời, chứ không rơi vào tinh thần bi lụy. Vì những người lính Tây Tiến hiểu rằng: Họ sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho một lý tưởng cao cả đó là bảo vệ Tổ quốc, đó là tinh thần của người cách mạng. Và người đời sau sẽ mãi dựng lên tượng đài của lòng dũng cảm trong bài thơ Tây Tiến – Một khúc tráng ca bất diệt.















Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

CHƯ YANG SIN SỐ XUÂN BÍNH THÂN - 2016, tác giả NGUYỄN NGỌC PHÚ

Một góc thành phố Vinh - quê Bác
Quê chung


Bỗng nghe tiếng nói trăm miền
Khi con bước đến làng Sen, làng Chùa
Lối vào nhà Bác đơn sơ
Bên hàng râm bụt, bên bờ phi lao
Bước chân bè bạn năm châu
Đứng gần nhau, xích gần nhau lối này
Thời gian là chính hôm nay
Mà không gian cả chuỗi ngày sao nguôi
Ba gian nhà lá, nghèo thôi
Chiếc chõng tre, Bác ra đời ở đây
Bên khung cửi nhỏ ngày ngày
Gió còn đưa chiếc võng này, Bác ơi!
Giọng ru xứ Nghệ “à ơi”
Nghìn câu hát cũ bồi hồi trong con
Biết lời nào của nước non
Đã cầm tay Bác thuở còn ấu thơ
Đồng xa lúa đã kín bờ
Con cò trắng muốt thẫn thờ bay bay…
Tiếng ai ru cháu trưa nay
Cây cam cây mít đứng say quanh nhà
Nước non ngàn dặm đường xa
Chúng con về chật một nhà Bác ơi!
Một quê chung của muôn nơi
Khoảng trời của những khoảng trời khác nhau.

                                                                     XUÂN HOÀI
Lời bình:

Có một địa chỉ mà muôn con tim hướng về, đó là làng Sen: Quê Bác! - Nơi đã sinh ra vị lãnh tụ kính yêu. Một làng quê Việt Nam rất bình dị, thân thương, đó là “Quê chung” cho mọi người.

Thường, các nhà thơ khi viết về Bác bắt đầu từ những điều giản dị, gần gũi đời thường để nói về cái lớn lao huyền thoại như: Đôi dép Bác Hồ, Tấm áo ka ki… Nhà thơ Xuân Hoài - người con Xứ Nghệ viết về quê Bác cũng là viết về quê mình. Cái duyên thơ bắt đầu từ sự mộc mạc ân tình mà lắng sâu da diết. Ông phát hiện ra một tứ thơ hay “Quê chung” bắt đầu từ những gì thân quí, thân thuộc từ khu vườn làng quê Bác. Ở đó có: “Ba gian nhà lá nghèo thôi - Chiếc chõng tre Bác ra đời từ đây”. Điệu thơ lục bát như một lời tâm tình, một “hướng dẫn viên tâm hồn” dẫn dắt chúng ta: “Lối vào nhà Bác đơn sơ - Bên hàng râm bụt, bên bờ phi lao”. Nhịp thơ thong thả, cân xứng, mềm mại như ca dao tạo ra sự cân đối mực thước, kính cẩn trong tâm thức mọi người: “Bước chân bè bạn năm châu - Đứng gần nhau, xích gần nhau lối này”. Chữ “xích” vốn là từ địa phương được dùng trong văn cảnh này thật hợp lý, chân thành để nói về một động thái vừa ấm áp tình người, vừa chung nhau một tình cảm lớn lao quy tụ thành một khối “kết đoàn” như lời bài hát Bác thường bắt nhịp. Bác chính là hạt nhân có sức hút với một từ trường từ vẻ đẹp bình dị thường ngày đến những tư tưởng nhân văn vượt ra ngoài bờ cõi.

Về thăm nhà Bác còn đó: “Bên khung cửi nhỏ ngày ngày - Gió còn đưa chiếc võng này, Bác ơi!”. Ta cứ ngỡ hình bóng tuổi thơ của Bác vẫn còn đâu đây. Chính tình cảm quê hương xứ sở từ những câu ru “à ơi” của một “Quê chung” này đã nuôi lớn tâm hồn của một con người vĩ đại từ: “Đồng xa lúa đã kín bờ - Con cò trắng muốt thẫn thờ bay bay”. Chính sự định vị bắt đầu từ ngôi nhà đơn sơ của Bác để nhìn rộng ra với năm châu bốn bể, với sự trải rộng của không gian và cụ thể của thời gian đã tạo ra sự cộng hưởng trong cảm xúc chung, tình cảm lớn về một vĩ nhân. Câu thơ bâng khuâng, dìu dặt: “Biết lời nào của nước non - Đã cầm tay Bác thuở còn ấu thơ” đã se thắt nghẹn lòng lắng lại bước chân khi hồi tưởng về quá khứ. Quê Bác - Quê chung không những là nơi sinh ra Người mà là cái nôi văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn, nhân cách trí tuệ của Người. 

Có một hình ảnh đột biến bất ngờ tạo cho tứ thơ bay xa hơn, nâng bổng hơn và da diết tình cảm hơn khi nhà thơ thật tinh tế nhận ra: “Tiếng ai ru cháu trưa nay - Cây cam, cây mít đứng say quanh nhà”. Đây là một trong những cặp lục bát hay nhất của bài thơ vượt ra ngoài giới hạn của tình cảm. Một sự quấn quít, giao cảm giữa thiên nhiên và con người, giữa quê Bác và nước non, thế giới, giữa tiếp nối thế hệ. Và “Nước non ngàn dặm đường xa - Chúng con về chật một nhà Bác ơi!”. Nếu như chữ “xích” là sự dịch chuyển chậm thì “chật” là một vòng tay thân thiết gắn kết với nhau hướng về một cội nguồn - một con người, và cao hơn là một lý tưởng. “Quê chung” được chắp cánh bay lên cũng bắt đầu từ một điều bình dị, ân tình như thế. Hình ảnh của Bác Hồ “Muôn vàn tình thương yêu trùm lên khắp quê hương” (Việt Phương) đã vượt ra ngoài biên giới đến với nhân loại bắt đầu từ: “Một quê chung của muôn nơi - Khoảng trời của những khoảng trời khác nhau”. 
                                     

                                                                        

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

CHƯ YANG SIN SỐ XUÂN BÍNH THÂN - 2016, tác giả PHẠM TỐ QUỲNH




TRÀ DUYÊN

Truyện ngắn



Quán trà ấy nằm ở góc phố, quán rất nhỏ mang cái tên “Năm xưa”. Năm xưa, năm xưa, người đọc lên lại thấy phảng phất biết bao kỷ niệm ùa về. Chủ quán là một cô gái tuổi độ hai lăm hai sáu, thường mặc một chiếc áo dài kiểu cổ màu xanh trứng sáo, mái tóc đen dài luôn kẹp hờ sau lưng, ánh mắt lúc nào cũng bình thản an nhiên dường như thấu triệt mọi thứ trên đời.
Khách đến quán chủ yếu là khách quen, mà khách mới đến lần đầu cũng đều phải tìm đường quay lại. Bởi trà, bởi người, bởi hoa. Chủ quán bảo ấy là trà duyên, mỗi một con người sinh ra trên đời nếu đã vương duyên với trà tức là đang muốn tìm về một cõi yên tĩnh, nảy trong lòng một chút thiện tâm giữa vòng xoáy hồng trần. Ngồi trước ấm trà, tĩnh tọa giây lát, nhìn vào những lá trà xoay tròn rồi chìm dần xuống, người ta bỗng nhìn thấy được cả kiếp trước, đời sau của mình. Có người hỏi chủ quán, cô chỉ cười bảo:
- Ấy là trà duyên.
1.
Trời đổ cơn mưa, anh và em tìm chỗ trú chân ở trong quán trà nhỏ. Đôi ta đến đây mới lần đầu. Quán trà mang đậm phong vị cổ kính, dường như rêu phong thời gian đã bám dày trên từng chiếc bàn gỗ sẫm màu, từng chiếc mành chạm họa tiết hoa mai ngậm sương, những đóa sen trắng dường như chẳng bao giờ úa tàn. Chao ôi, cái màu trắng thanh tân ấy khiến anh nhớ đến ngày mình gặp nhau. Tương phùng do duyên, duyên phận trong đời như nước chảy, người đến kẻ đi, vậy mà anh lại bị đôi mắt em thu hút.
Chủ quán đợi cho chúng ta kịp trao nhau ánh mắt mới bước ra ôn tồn hỏi han. Anh là người không thích trà, còn em thì khác. Anh không biết làm sao đành gọi thứ trà sen mà em yêu thích nhất. Cô gái trẻ cẩn thận đặt bộ trà cụ xuống, để cho khách tự pha, anh hỏi vì sao, cô mỉm cười bảo:
- Để biết cách nâng niu từng mối duyên phận.
- Nhưng tôi không biết cách pha trà.
Cô gái trẻ đặt tay lên ngực mình, nụ cười trên môi càng lúc càng dịu dàng. Trong thoáng chốc ấy anh như hiểu ra, anh không cần phải tráng ấm chuyên trà, chỉ pha một chén mộc mạc theo đúng lòng mình mong muốn. Em ngồi đó, chống cằm nhìn anh lóng ngóng, trà vương vãi ra bàn. Trông anh như một chú bé đang chơi đồ hàng cùng bọn con gái thuở ấu thơ. Trà pha ra, nước xanh trong như cõi trần vô dục, hương thơm thoảng qua giống như mùi tóc em xao xuyến.
Giữa xô bồ, ta trao cho nhau một chén trà trong, em và anh không cần kiểu cách, dốc cạn cả tấm lòng. Anh và em đưa mắt nhìn nhau, khoảnh khắc ấy chừng như hàng thế kỷ, liệu đôi ta có thể ngồi như vậy mãi hay không? Ngoài kia đầy huyên náo, anh chỉ muốn trốn ở chốn này, trốn vào trong lá trà, ấm tách, tự giữ cho mình một thoáng bình an. Anh sợ hãi những gương mặt ngoài kia, anh sợ hãi những con người với tấm lòng bon chen không ngớt.
Dừng lại một chút thôi em. Ngày mai anh sẽ trở về, là một nhà văn âu lo cùng cơm áo gạo tiền, em sẽ trở về là một cô gái lãng mạn đa sầu. Hai thứ đó bổ trợ cho nhau, và chờ khi chúng ta về chung một lối. Liệu trăm năm còn có đủ?
Anh gõ nhẹ mặt bàn, chén trà rung khẽ, từng xoáy nước hút hồn anh, anh và em cùng nhìn vào trong chén. Thấy hiện lên cảnh non sông tráng lệ. Trời đang về đêm, trăng sáng thấu tỏ, giữa nhà tranh vườn quỳnh có một văn sĩ đang ngồi trước bàn viết. Chàng ngắm nhìn đóa quỳnh trông trăng say đắm, chốc chốc lại họa lên trang giấy những giòng chữ tài hoa. Giữa ánh trăng mờ ảo say lòng, bên kia sông đang chìm trong ánh sáng điện đường, ánh sáng giả tạo của những kẻ ham vinh hoa phú quý:
Đêm buông xuống, vầng trăng trong trẻo hào phóng ban cho nhân gian muôn sắc ngọc, Hà Nội đã lui về sau một ngày hối hả nhuốm mùi thuốc súng và dây thép hòng nghỉ ngơi dưỡng sức. Để rồi bước ra trong vẻ ngoài bảnh bao với những bộ trang phục lộng lẫy, nhón chân vào Thuỷ Tạ, Khâm Thiên, ngây ngất trong tiếng đàn ca sênh phách cùng những phồn hoa một thời.
Những câu chuyện đó đã lùi về một thế giới khác - một thế giới mà văn sĩ coi là truỵ lạc, bê tha. Chàng giống như một Nho sinh nhầm thời, cả ngày vui với sách vở cổ kim, nhìn cảnh bàn tay ngoại bang cày nát non sông mà chỉ biết nhỏ lệ thở dài. Văn sĩ sống ẩn dật, lánh khỏi con người và cả cái công nghệ của thời thế, chỉ ham hương sắc dạ quỳnh. Chàng không ưa nên nàng cũng ghét lây, chỉ ngẩng cao đầu kiêu hãnh trông về phía đèn hoa rực rỡ ngập mùi rượu cồn và thuốc phiện. Văn sĩ sống thanh cao bên Quỳnh, nàng là cảm hứng và tình yêu của những trang văn thấm đẫm hơi thở thời cuộc.
Chàng đặt cho nơi mình sống một cái tên thật kêu, thật cổ: Quỳnh Uyển. Quỳnh Uyển mà duy có nàng thôi. Đêm nay chàng lại đọc những trang văn mới viết cho Quỳnh nghe, nàng là độc giả đầu tiên của văn sĩ.
Bao giờ cũng vậy, Quỳnh sẽ ngồi đó ngẫm ngợi, thi thoảng mỉm cười đàm luận đôi câu. Ngoan ngoãn và dịu dàng. Hương thơm từ suối tóc nàng làm chàng ngây ngất. Văn sĩ lấy làm hài lòng, chàng viết rất nhiều, từ những kẻ ăn mày cho tới các vị quan tai to mặt lớn miệng quát Xà - lù - mẹc. Thế giới này sinh ra là để nằm gọn trong trang viết của chàng, sống vì chàng. 
Văn sĩ đặt bút xuống, chấm một nét đầu tiên, chàng lại viết. Chàng sẽ viết gì đây? Quỳnh khe khẽ cúi xuống, để cho mái tóc mềm sượt qua vai chàng. Tứ văn bay bổng, những con chữ giăng hàng trên trang giấy, chàng đang ở nơi nao?
- Những câu chuyện của anh luôn khiến em hoảng loạn. – Quỳnh bảo.
- Em xem, trăng kia có mấy khi tròn. – Văn sĩ cười.
Trời tang tảng, Quỳnh lui vào đài hoa, nàng ủ rũ nói:
- Em e sợ những kết thúc không viên mãn, em sợ sự điên cuồng trong đó.
- Cuộc đời của chúng ta chẳng phải luôn điên loạn đấy sao. – Văn sĩ mơ màng.
Văn sĩ yêu Quỳnh nhưng nàng mong manh quá, yếu ớt quá, mấy ngày nay tấm áo xanh của nàng đã xuống màu hẳn, vàng vọt như cát pha, khuôn ngọc cũng nhợt nhạt đi. Chàng đau lòng nhìn Quỳnh đang gượng cười với mình rồi đứng lên xoa nhẹ gò má trắng nhợt của nàng. Dưới ánh trăng khi tỏ khi mờ, đêm dài sắp hết, Quỳnh bỗng buồn rầu lưu luyến. Để rồi nhành ngọc cứ rũ mãi xuống, cánh hoa rụng hết thảy. Kiếp quỳnh hoa đêm nở ngày tàn, kiếp hoa mong manh.
Văn sĩ khóc nấc lên khi người yêu về với chúa hoa. Quỳnh bị trời xanh giày xéo, thanh bạch một đời, nay chỉ trơ lại vài đốt tay rỉ máu, cánh hoa trong trắng tinh khôi còn đượm hương lẫn vào bùn đất. Văn sĩ nâng xác nàng lên, tắm rửa cho nàng dưới sự chứng kiến của Nguyệt Thần, chàng cầm lòng không đậu, cớ sao cái đẹp cứ bị trêu ngươi?
Sông núi trải bao còn, giang sơn đã đổi chủ, Quỳnh Uyển xưa nay vùi thây trong lòng đất dưới sự tàn phá khốc liệt của thời gian để lưu lại cái hào hoa trăm năm trước. Sau ngày Quỳnh mất, văn sĩ cũng thành người thiên cổ. Người tri âm đã đi còn cầm bút làm gì? Lòng tiếc hoa lùi vào dĩ vãng. Từ bờ sông Hồng trông ra, vườn cũ chỉ còn là một cái gò nhỏ mà cỏ dại mọc tràn.
Anh ngẩng lên nhìn em, thấy đôi mắt em đã đẫm lệ. Ai từng bảo trà khiến ta tìm được kiếp trước kiếp sau. Anh kiếm tìm chủ quán, mong giãi bày đôi câu. Cô gái trẻ vẫn mỉm cười hiền dịu, đặt tay lên trái tim mình, đáp:
- Ấy là trà duyên.
2.
Sau cơn mưa, hôm sau nắng đã đổ lên thành phố. Bất giác lại đem đến chút yên bình thoáng qua, hơi sương còn đọng trên những tán cây rộng, lấp lánh như ngọc. Khách vào quán là một chàng trai trẻ, trong đôi mắt vương nét sầu bi. Ngày ấy, anh hay đưa người thương đến đây để tìm khoảng không gian riêng tư cho chuyện tình đẹp tưởng như vĩnh cửu. Vậy mà giờ đây chỉ riêng người lẻ bóng.
Chủ quán đưa ra một chén nước trong, bên cạnh chẳng có trà cụ hay chỉ một lá trà duy nhất. Khách ngước mắt nhìn cô thắc mắc, chủ quán vẫn nở nụ cười nền nã trên môi. Chén nước sôi thoáng bỗng run lên rồi trong các vòng xoáy hiện ra cảnh người ở kiếp trước:
Sân khấu rộn tiếng cười, đậm nét phồn hoa thuở thịnh thế, màn nhung vén lên, đèn nến vụt tắt, để lộ ra bóng tài tử giai nhân. Hóa ra họ đang diễn một khúc "Lã Bố hý Điêu Thuyền". Người xem kịch im lặng, đắm mình vào chuyện tình thê lương. Kỳ lạ thay, giữa lúc ấy, Điêu Thuyền chẳng màng đến Lã Bố, chỉ đau đáu ngắm nhìn một chéo áo xanh. Mà chéo áo ấy thuộc về một thư sinh nho nhã, năm nay chàng lên kinh dự thi, tạm thấy chốn hào hoa mà đặt chân tới.
Ánh mắt họ chạm nhau, thoáng chốc đã được khắc ghi đến suốt kiếp.
Nàng thẹn thùng dùng vạt áo giấu đi gương mặt. Liệu chàng có đang nhìn ta chăng? Nếu chàng động lòng, vậy thì vì ta hay vì phấn son châu ngọc? Nho sinh ngước mắt, tự nhủ rằng nụ cười ấy dành cho ai? Tiếng tục khách lao xao bên tai, hay nàng đang động lòng vì ai khác? Vậy là, chàng quay lưng rời gót.
Họ gặp nhau một lần nữa ở trước bảng vàng, nhưng vị tân Trạng Nguyên lại lặng lẽ đi lướt khỏi giai nhân. Nhà vua đã ban hôn ước cho chàng và công chúa, nho sĩ đã quên ánh mắt trên sân khấu hôm nào. Duyên phận được xe trong thoáng chốc, tan thành mây khói. Điêu Thuyền thấy hụt hẫng, bỗng chốc dầm dầm lệ sa. Cứ như thế, hai người để lỡ mất nhau…
Khách thấy trái tim đau nhói, tất thảy sự không bằng lòng trên thế gian đều đến từ nhân quả kiếp trước. Bấy giờ chủ quán mới đặt xuống bàn một bình trà xanh trong vắt, khách bỗng chốc tỉnh ngộ...
3.
Phố chuyển sang đêm, ánh sáng ban ngày đã bị thay thế bởi đèn điện le lói đủ mọi màu sắc. Thủ đô là nơi nuôi dưỡng ước mơ cũng là nơi nhấn chìm biết bao nhiêu số phận. Có người lên, kẻ xuống, người đến, kẻ đi, nhưng cho dù tất thảy đều nhận ra điều bi kịch thì vẫn tình nguyện nhắm mắt bước vào, chỉ vì một thoáng phồn hoa. Trăm năm cũng chỉ như cát bụi, cớ chi mà cứ mãi bon chen?
Trăng lên, dòng ngân hà nghiêng nghiêng. Từ chín tầng trời, dòng thác trăng đổ xuống trùm lên thành phố.
Ở đây, người ta đã thôi ngắm trăng. Có lẽ bởi ánh đèn, hoặc bởi đã không cần tri âm nữa. Trăng chỉ tỏ khi thấy tri âm, nước mắt ngàn năm của vầng trăng ấy có ai từng thấu hiểu?
Ngoài ban công của quán trà, văn sĩ im lặng ngắm trời cao. Có một ngôi sao sáng tỏa trên đầu, bỗng nhiên lóe lên giống như giọt lệ của thần linh kết đọng cả vạn thế kỷ. Tay anh hơ trên miệng chén trà, để làn hương ấm áp ngấm dần vào thể xác và linh hồn. Trăng đang rầu rĩ, bỗng nghển cổ mà trông. Ai từng bảo ánh trăng lạnh lẽo? Có chăng cũng chỉ lạnh với tục nhân. Văn sĩ buông tiếng thở dài.
Chủ quán đứng bên giò địa lan đương trổ, lặng lẽ trông về phía ban công. Nỗi đau của những kẻ sinh nhầm thời đã biến họ trở thành tri kỷ. Văn sĩ nhìn vào từng xoáy nước ngày một dày đặc trong chén trà, giống như bão lòng của chính bản thân. Anh thấy bóng áo dài cùng với nụ cười nền nã, đôi mắt ấy giống như thấu triệt, soi sáng cả tâm linh bụi bặm của thế gian.
- Đời thì bạc. – Văn sĩ bảo.
- Chuyện đời có mấy khi vừa lòng người? – Chủ quán cười.
- Chúng tôi nhếch nhác lắm phải không cô? Sống trong cái thời nhiễu nhương này, những văn nghệ sĩ có tâm thì khổ.
- Ai cũng có sứ mệnh của riêng mình, chi bằng cứ nghĩ như vậy cho thỏa lòng.
- Đời đáng cười. Những người khắc khoải cả đời với chữ thì cứ chịu đày đọa mãi, quả đúng là phận giời hành. Kiếp sau xin đừng làm thân phu chữ!
Mùi trầm nhẹ tỏa, chủ quán mỉm cười bốc một nắm trà cho vào trong chén, nước sôi dội lên, những lá trà chịu đựng rồi nở ra. Chìm nổi mấy phen, nước trà tỏa hương ngan ngát, trong vắt như sương. Cô vuốt lại nếp áo, im lặng. Chén trong tay văn sĩ khẽ động, run run, bên trong hiện ra ánh mặt trời xán lạn. Dưới ánh mặt trời ấy, có một cây hoa đào đang mãn khai rực rỡ. Văn sĩ trầm trồ, không nỡ dứt khỏi những cánh hồng sắc xuân. Ấy vậy mà, chớp mắt, giông bão nổi lên vùi dập tất thảy. Gốc đào chỉ còn trơ lại cành lá xác xơ, hoa nát thành cát bụi rắc rụng đầy mặt đất.
- Sự sinh và tử, được và mất cách nhau chỉ trong gang tấc, buồn vui chuyển hóa, họa phúc không ngừng. Trong vòng xoáy này, nỗi buồn của chúng ta là một thứ xa xỉ phẩm, ai cũng đáng thương, ai cũng bế tắc. Cớ chi cứ phải đày đọa mình mà không thể sống ung dung tự tại, không lo sợ trước bão giông, giữ lấy một tấm lòng trong thiên hạ, tránh khỏi những sự chướng tai gai mắt giữa buổi nhiễu nhương?
Văn sĩ sững sờ, mầm sen hé nở, vụt ngoảnh lại nhìn chủ quán. Cô mỉm cười nền nã, đặt tay lên trái tim...



Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2016

CHƯ YANG SIN SỐ XUÂN BÍNH THÂN - 2016, tác giả TRẦN BĂNG KHUÊ





XUỐNG NÚI
Truyện ngắn



1
Tôi đã chọn ngày nắng đẹp rực rỡ. Mùa xuân vẫn còn hớn hở đâm chồi nẩy lộc và đơm hoa kết trái, mặc dù mùa hè đang đến. Tôi sẽ xuống núi cùng mẹ.
2
Ngày xuống núi cũng đã đến. Ngay sáng mai thôi. Chỉ cần mặt trời chiếu những tia sáng đầu tiên trên ngọn cây sau đồi. Tôi sẽ được xuống núi cùng mẹ. Cả một đêm dài của tôi. Đêm miên man, huyền hoặc của tôi. Mẹ vẫn đang làm gì đó bên bếp lửa. Ở gian nhà giữa. Thỉnh thoảng mẹ liếc sang nhìn tôi. Đứa trẻ mụ mị với nỗi vui sướng vì sắp được xuống núi. Đêm tịch mịch. Bầu trời của tôi sáng lấp lánh ngàn ngôi sao ước vọng. Bao giờ mẹ cũng chỉ về hướng nào đó trên bầu trời và bảo rằng: “Cha tôi ở đó”. Mẹ từng nói: “Cha tôi đã ao ước một lần được xuống núi”. Rồi cha đi. Cha bám vào ngọn cây sau đồi, để có thể bám theo những vì sao và xuống núi. Nhưng, tôi biết, cha chưa bao giờ xuống núi được. Ánh mắt mẹ đăm đăm nhìn sâu vào ngọn lửa đang cháy. Mẹ thì thào một mình: “Những người đàn ông đã rời đi sẽ trở về trong lửa”. Đêm vẫn tịch mịch dài. Tôi thiếp ngủ bên mẹ, bên lửa. Lửa ấm và sáng. Như giấc mơ.
3
Bình minh cũng đã leo lên ngọn đồi, tinh nghịch nheo mắt nhìn căn nhà bé nhỏ, đơn độc. Mẹ đã sửa soạn đầy đủ các loại vật dụng cần thiết để đi đường. Mẹ bắt đầu thúc giục rộn ràng: “Nào, nhanh con gái, chúng ta sẽ xuống núi”. Tôi bất giác buông lời hỏi mẹ: “Liệu con có thể tìm thấy cha?”. Mẹ sững sờ nhìn tôi, rồi liếc sang chiếc bếp tro đã tắt lửa, chỉ còn hơi ấm đêm qua. Mẹ không trả lời. Tôi nhìn ra cửa, tay xách một chiếc túi màu nâu.
Mẹ và tôi sẽ xuống núi bằng lối mòn. Tôi vui mừng với những mộng tưởng đầy hứa hẹn về một bữa cơm no. Tôi đi nhanh lắm. Đôi chân trần thoăn thoắt của một đứa trẻ hồn nhiên với những mơ mộng và ảo tưởng luôn tràn đầy năng lượng. Tôi gạt phăng hết tất thảy các loại chướng ngại vật. Những cây gai mọc ngang, những đá dăm đá sỏi, những gồ ghề khúc khuỷu trên đường đi. Mẹ bảo ở dưới đó con sẽ được nhìn thấy thế giới. Mẹ vẽ ra nhiều mùa lễ hội đẹp và vui. Tôi tung tăng đếm nhịp bước chân của mình và chọn lựa từng ý nghĩ, nhưng cuối cùng tôi vẫn quyết định mơ về một bữa cơm thịnh soạn nhiều thịt, cá.
Đường xuống núi đẹp lạ lùng. Hoa cỏ xanh tươi thơm lừng từng hơi thở. Chúng sẵn sàng mở lối. Tôi bị dẫn dụ bởi nhiều viễn cảnh mở ra trong trí tưởng tượng ở dưới kia. Thế giới văn minh. Mẹ đoán chừng, nơi đó rất náo nhiệt, tôi lẩm bẩm hồn nhiên bên cạnh mẹ: “Có lẽ, mẹ cũng đã từng mơ xuống núi”, rồi nghĩ, tôi nghĩ về những thứ của tôi: “Hẳn nhiên tôi sẽ có thêm bạn”. (Tôi không nghĩ nhiều về những điều mẹ trầm mặc, mỗi lần nắm chặt đôi tay bé nhỏ của tôi dọc đường). Còn mẹ, mẹ vẫn luôn thì thào bằng gam giọng trầm, xa vắng: “Ở đó, chắc chắn sẽ có nhiều những thứ chạy bằng máy móc, động cơ, chúng sẽ khiến con ngỡ ngàng và ngộp thở”. Đứa trẻ con ham vui trong tôi vẫn chẳng mảy may để ý đến lời mẹ. Một cơn gió nhẹ thoảng qua tai. Tôi nghĩ nhiều về bữa cơm nằm trong chiếc hộp màu trắng xốp hoặc trên chiếc đĩa dẹt hình tròn mà tôi thường mường tượng mỗi lần có người dưới xuôi lên núi. Tôi sẽ dùng những chiếc thìa màu bạc, những chiếc nĩa màu đồng, những đôi đũa sáng lấp lánh để nhấm nháp từng món ăn ngon. Tôi không phải giở nắm cơm mẹ gói trong lá chuối ít ỏi và rắc một tí muối vừng nữa. Tôi bắt đầu mơ về thế giới ấy, thế giới của những bữa cơm chan đầy nước màu đỏ sền sệt như súp.
Suốt đoạn đường đi mẹ thao thao kể về những ngôi trường có con chữ biết nhảy múa, có người bạn giống tôi biết đàn ca và hát. Suốt đoạn đường tôi đi, mẹ thường xuyên ngoảnh mặt lại phía sau, vẫy tay chào từng bờ cỏ dại, rồi len lén gạt phăng những giọt nước mắt để mỉm cười cho tôi yên dạ.
4
Mặt trời lên cao dần, chân tôi thoăn thoắt bước nhanh hơn. Nhưng, tôi phát hiện ra điều gì đó kì lạ. Dường như, con đường ngắn lại, không gập ghềnh đá sỏi nữa mà trơn tru láng mịn đến lạ kì. Mẹ chỉ tay về phía trước, có một đoạn dốc lõm xuống sâu hóm và quanh co như thung lũng. Mẹ nhón từng bước một, khe khẽ rồi nắm lấy tay tôi lao nhanh. Cả thân thể tôi tuột dần, tuột dần xuống triền dốc. Tôi nhắm mắt lại để khỏi phải sợ hãi cảm giác lần đầu tiên lao xuống một nơi nào đó khác với quê hương mình. Ý nghĩ về những hào nhoáng xa xăm nở bừng như màu hoa vàng trong đầu tôi. Một đứa trẻ chỉ cần được ăn no và cười. “Hóa ra chẳng có gì đơn giản mẹ nhỉ”, tôi thì thầm bên tai mẹ, đến khi con đường dốc biến mất, núi rừng biến mất, mặt trời biến mất. Trước mặt tôi là một ngôi trường ba tầng xây dựng rất hiện đại, rộng rãi, từng dãy nhà cao, dài, cứng cáp chẳng hề giống mấy ngôi nhà sàn bằng tre nứa của làng tôi trên núi. Đèn điện sáng choang, nhiều màu sắc. Người đông đúc đi lại. Tiếng nhạc xập xình. Tiếng hát ồn ào xen lẫn những thanh âm thét gào. Tôi hơi hoảng hốt. Mẹ ghì chặt nắm tay bé bỏng và ôm lấy tôi vào lòng thủ thỉ: "Đừng sợ con gái, hãy bước chân vào căn phòng phía trước mặt. Con sẽ tìm thấy cha."
Mẹ đưa tôi đến lớp học đầu tiên là một căn phòng nhỏ, mẹ nói điều gì đó với người đàn bà có đôi mắt ti hí, rồi mẹ rời gót, trở về bên cạnh tôi thắc thỏm, nhắc lại từng lời: “Đừng sợ con gái, hãy bước chân vào căn phòng phía trước mặt. Con sẽ tìm thấy cha”. Sau đó, mẹ rời khỏi nắm tay tôi. Mẹ trở về rừng. Mẹ lên với núi. Chỉ còn tôi ở lại với lời dặn dò của mẹ: “Đừng sợ con gái. Ở đó con sẽ tìm thấy cha”.
5
Tôi bần thần đứng giữa những con người kì lạ. Họ không buồn nhìn đến tôi, họ không tò mò hỏi tôi từ đâu đến? Hoặc là mỉm cười chào tôi lấy một lần. Tôi lại  nhớ lời mẹ thủ thỉ trước đêm rời khỏi nhà: "Nếu muốn được ăn cơm, con phải làm những việc giống họ nhé". Mẹ nói thế có nghĩa là gì hả mẹ? Tôi chỉ thấy quanh mình một không gian ảm đạm chẳng hề vui vẻ như mẹ nói. Họ đang vừa hát vừa cầm những chiếc thìa màu bạc và xúc cơm trắng đưa vào miệng nhai rau ráu đến ngon lành. Cuộc hành trình đường xa, khiến tôi đói đến độ không cần suy nghĩ thêm về lời của mẹ. Tôi bắt đầu quan sát và tìm cách làm sao để lấy được một đĩa cơm trắng mà tôi mơ ước. Người bạn đứng bên cạnh tôi, anh ta bị chột một con mắt. Những ngón tay không thẳng đang cố với lấy đĩa thịt có thứ nước sốt đỏ sền sệt. Anh ta nhắc nhở tôi hãy bước về phía trước, ngay cái bàn dài đó để lấy đĩa cơm. Giọng rền rền của anh ta khiến tôi rùng mình khi nghe điều kiện: "Muốn ăn đĩa cơm đó mày phải bị khuyết tật một tí". Nghĩa là, không được phép lành lặn ư? Mẹ chưa hề nói đến điều này. Có lần tôi nghe mẹ thở than, quả tim của con đập lạ lùng lắm, lúc nào cũng như tiếng nước đang sôi, réo ùng ục trong lồng ngực. Tôi giật mình, chẳng lẽ tôi lại phanh ngực ra, chỉ vào đó và bảo rằng: "Đây, khuyết tật của tôi nằm đây". Chắc chắn dưới lớp da lành lặn, sáng mịn vì được dưỡng nuôi dưới ánh mặt trời thuần khiết của tôi sẽ chẳng ai tin đâu. Anh bạn phía sau vẫn thúc cùi chỏ vào lưng tôi, bắt tôi phải tiến về phía trước, bưng lấy đĩa cơm. Người đàn bà phục vụ bàn nhìn thấy tôi liền hỏi: "Thế khuyết tật của mày là gì?". Tôi giật mình, nhắm tịt cả hai mắt lại, trả lời: "Dạ, cháu chẳng nhìn thấy gì cả, cháu bị mù ạ". Ồ, lần đầu tiên tôi nhanh trí khi quyết định giả mù để có được đĩa cơm, dù chỉ chan thứ nước sốt sền sệt màu đỏ ấy.
Dạ dày tôi lại cồn cào sôi réo, tôi không đủ tỉnh táo trước cơn háu đói của mình để suy nghĩ xem, mẹ đã đưa tôi đến ngôi trường này như thế nào? Sao lại kì lạ đến vậy? Tất cả họ đều kì lạ. Tất cả họ đều chỉ biết ăn và ăn. Có một người đàn ông mù đang đứng hát trên bục cao trong căn phòng này, trong lớp học đầu tiên của tôi. Mẹ đâu rồi? Mẹ tôi đâu rồi? Rừng núi nở hoa của tôi đâu rồi? Bọn chim non líu lo trên những ngọn cây, mỗi sáng tôi bước chân ra khỏi bậc cầu thang từ trên nhà sàn xuống sân đất đỏ đâu rồi? Mẹ ơi.
Nước mắt tôi không thể rơi tự do được. Vì tôi đang phải giả vờ mù để ăn hết đĩa cơm này. Tôi nghĩ đến lời thì thào của người đàn bà béo tròn lúc nãy bên bàn dài để cơm: "Mày hãy ăn đi, nhưng đừng để chúng tao phát hiện ra mày đang giở trò gian dối". Tôi giật mình, cố lùa nhanh từng hạt cơm màu trắng vào miệng, chỉ sợ nó biến mất, chỉ sợ bà ta biết rằng tôi đang giả vờ bị mù. Trong từng khoảnh khắc một, tôi tự mình gây áp lực bằng những sợ hãi miên man. Tim tôi đập nhanh, và bắt đầu sôi réo. Rõ ràng là nó không bình thường. Rõ ràng là tôi đang cảm nhận được sự đau đớn của mình ở vị trí đó. Vậy mà, tôi vẫn phải giả vờ nhắm nghiền cả hai mắt lại. Tôi tiếp tục thì thầm gọi mẹ. Có lẽ, lúc này tôi mới thấm thía cảm giác mù lòa của kẻ khác. Ôi, mù lòa chỉ vì một đĩa cơm trắng chan thứ nước sền sệt mà tôi thèm khát. Tôi muốn ném cái đĩa xuống nền và mở trừng mắt ra ngay lập tức. Ý nghĩ biến thành hành động. Tôi làm thật. Người đàn bà nhìn xéo, chỉ tay về phía tôi, quát gọi những kẻ mặc bộ trang phục cũ kỹ ám mùi rêu mốc thếch. Tôi bỏ chạy. Tôi lách qua căn phòng trống, bên trong có những chiếc giường ngủ sang trọng xinh xắn. Đám người có khuôn mặt màu xám vẫn đuổi theo tôi. Những bước chân gấp gáp ở phía sau lưng, khiến tôi toát mồ hôi. Đến cuối hành lang của dãy nhà mẹ đưa tôi vào, bỗng mở ra một lối đi. Chúng vừa đủ cho thân hình tôi lọt thỏm, và dễ dàng thoát khỏi sự đuổi bắt phía sau. Tôi men theo bờ tường chạy ào thật nhanh về phía ánh sáng lấp lánh. Chân núi hiện ra trước mặt. Những gờ đá gồ ghề xuất hiện. Cỏ hoa vẫn xanh ngăn ngắt. Tôi reo lên mừng rỡ: “Về nhà, về nhà thôi, về với mẹ của ta thôi. Chẳng ăn cơm trắng nữa, chẳng phải nhắm nghiền hai mắt lại nữa, và chẳng ai đuổi bắt ta ở phía sau lưng nữa. Mẹ ơi, con không cần cha.”
6
Tôi băng băng lao nhanh trên con đường quen thuộc. Dù nó càng lúc càng cao dần. Tôi vẫn chạy như kẻ đang bị người ta đuổi bắt. Rồi, bỗng dưng tôi trượt chân, rơi, cảm giác rơi thật nhanh, không thể nào dừng lại được. Tôi lại gọi mẹ. Tôi gọi cả núi rừng, gọi cả mặt trời và con gà trống bạn tôi mỗi buổi sáng gáy vang nơi đầu hồi của căn nhà sàn lẻ loi trên đỉnh. Tôi nhắm mắt lại lần nữa. Rơi, rơi dần. Hình như tốc độ rơi còn nhanh hơn lúc mẹ và tôi xuống núi. Chẳng ai đuổi bắt, tại sao tôi vẫn rơi? Chẳng phải xuống núi, tại sao tôi vẫn nhìn thấy độ dốc nghiêng đến mức chóng mặt? Ồ, hóa ra, hoặc, có lẽ, người ta luôn bị rơi trong khoảng chừng của những ham muốn đầy bóng tối.
Một bàn tay ấm nóng, nắm chặt lấy tay tôi. Cảm giác rơi nhanh đầy hoảng sợ ấy bỗng dưng trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu. Có thể là mẹ, có thể là một sự cứu rỗi dịu dàng nào đó. Tôi buông bỏ hết tất cả những ám ảnh từ phía ngôi trường ấy. Và nhắm mắt, mặc kệ thân xác mình đang trôi. Tôi mơ về một hình hài hệt như cái bóng của đỉnh kim tự tháp màu trắng bạc, rồi mấp máy môi, thều thào vài ba âm vực trầm đục, câu được câu mất. Duy chỉ có điều khiến tôi thích thú nhất, là nhìn thấy mình đang mỉm cười, nằm yên dưới chân đồi. Nơi, có những mùa hoa vàng cả mặt trời.
7
Ngôi nhà nhỏ trên đỉnh đồi Lang Thang bốc khói và cháy bùng trong một đêm lửa vào thời điểm đổi mùa. Chẳng ai biết nguyên nhân tại sao. Nhưng, hoa gạo đỏ lại nở thay mùa dã quỳ quen thuộc. Mùa xuân đỏ.
Dăm bảy năm sau, người dân đi rừng, leo núi vẫn thấy hình bóng của một người đàn bà thoắt ẩn thoắt hiện, xõa tóc phủ kín khuôn mặt ơ hời gọi tên một đứa trẻ bằng giọng trầm sắc lạnh: “Lang Thang hỡi Lang Thang. Con đừng xuống núi. Cha con chết rồi. Lang Thang hỡi Lang Thang.”



Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

CHƯ YANG SIN SỐ XUÂN BÍNH THÂN - 2016, tác giả NAM GIAO





NHỮNG LÁ THƯ BỊ MẤT TÍCH

Truyện ngắn
           


Chị Lan con gái bác chủ nhà cầm sang phòng trọ cho tôi mấy cái bưu ảnh. Thành gửi cho tôi từ Pháp. Anh đang đi du lịch xuống vùng Provence. Thành học và làm việc tại ALès. Tôi cầm mấy cái bưu ảnh mà Thành gửi, đập vào mắt tôi là cánh đồng oải hương dài tít tắp. Cả một khoảng trời được nhuộm một màu tím đẹp mê hồn. Phía sau tấm bưu thiếp, Thành viết “ Anh đang lang thang ở đây, ước gì có em nhỉ?”, tôi đọc rồi mỉm cười một mình. Thành bao giờ cũng vậy. Dễ thương và tình cảm quá. Đôi khi, anh làm tôi bất ngờ quá đỗi.
Chúng tôi học cấp ba cùng nhau. Thành là mối tình đầu của tôi. Tôi nhớ mãi cái lần “ anh hùng cứu mỹ nhân” ấy. Nói cho có vần có điệu, chứ nếu tôi tự phong mình là mỹ nhân thì chắc cũng khối người phát ói. Tôi chỉ tự nhận mình dễ nhìn và dễ thương thôi. Mà đấy cũng là nhận xét của bạn bè và của Thành, rồi như được mặc định, tôi quàng lên người tôi những tính từ ấy. Rồi, lại quên, tôi đang định kể về cái sự cố mà. Nó như vầy. Cấp ba thì ai cũng phải mặc áo dài đi học và đi xe đạp. Chẳng hiểu có lần tôi lơ đễnh thế nào ấy, mà cái tà áo dài phía sau bị cuốn vào tăm xe đạp. Nó giật tôi một cái, xé toạc cái tà sau ngang eo. Thành đi học về cùng đường, đang đoạn lên dốc, thấy tôi như vậy cậu ta vứt luôn cái xe đạp của mình chỏng chơ trên lề đường, chạy tới cứu nguy cho tôi bằng cách xoay xoay bánh sau của chiếc xe để mở dần dần cái tà áo dài đang được cuộn tròn trong ổ líp ra. Thành lấy được cái áo dài ra giúp tôi, trong khi nước mắt tôi đã chảy dài rồi. Tôi chẳng hiểu vì sao cái áo của mình lại mắc vào tăm xe đạp như thế.
- Khánh mặc áo Thành mà về.
Vừa nói Thành vừa mở lần lượt từng cái cúc một trên hàng nút áo của mình.
- Vậy Thành ở trần như vậy về à? Đi giữa trời nắng như vậy?
Thành gật đầu:
- Không sao đâu.
Từ hôm ấy trở đi, đi học về chúng tôi không đi đứa trước đứa sau nữa, mà đi cùng nhau. Rồi chẳng biết thích nhau từ lúc nào. Sau đó ít lâu, cả lớp đồn ầm lên rằng hai chúng tôi là một cặp. Còn chúng tôi, chúng tôi im lặng. Thành vẫn đi về cùng tôi mỗi trưa, có hôm xe hư, cậu ấy sang tận nhà đón tôi đi học. Rồi cùng đi học thêm chung một thầy. Bạn bè gặp chúng tôi đi cùng nhau nhiều đến vậy, không đồn đoán mới là chuyện lạ.
Thành sống với bà nội. Bà già rồi nên việc nhà cái gì Thành cũng biết. Chuyện đi chợ nấu ăn với cậu ấy là chuyện thường xuyên. Học kỳ cuối cấp. Trong khi tôi nói với Thành rằng tôi sẽ thi vào đại học Y Dược, thì tôi thấy cậu ấy im lặng, và buồn buồn. Tôi hỏi Thành định thi vào ngành gì thì cậu ấy bảo “ tớ còn chưa biết”. Tôi chỉ biết rằng Thành thích trở thành một kỹ sư, mà học kỹ sư chỉ có trường bách khoa. Ở Đà Nẵng có bách khoa. Vậy tôi ra Huế học Y Dược, còn Thành ở đây học bách khoa sao? Tôi nghĩ đến vậy thì thấy buồn, vậy khi xe tôi hỏng, ai sẽ đưa tôi đến trường. Nghĩ tới đó thôi là tôi đã thấy buồn một ít trong lòng rồi.
Vậy mà Thành đi xa lắm. Xa đến mức tôi không thể gặp được Thành chỉ sau một chuyến xe. Thành sang Pháp đoàn tụ với gia đình, và học tại đó. Tôi đậu vào đại học Y Dược, cũng đi học xa nhà.
Thời gian cứ vậy mà trôi qua. Thành và tôi gần như không biết gì về nhau. Không thể liên lạc được. Thành đi và mọi thứ cứ như bị cuốn theo, mất hút. Việc học của một sinh viên Y khoa khá nặng nề đối với tôi, ngoài thời gian học ở trường, chúng tôi còn được tập làm quen dần dần ở bệnh viện. Những năm đầu còn đơn giản, sau đó sẽ vừa đi học và đi trực như một bác sỹ chính thức. Thỉnh thoảng, những lúc tết về quê, những lúc đi họp lớp tôi mới đủ thời gian rảnh rỗi để ngồi nhớ lại những chuyện đã qua. Thỉnh thoảng, trước những câu hỏi của bạn bè, mắt tôi như chỉ chực chờ muốn được khóc.
Thành mất tăm. Không email, không điện thoại, không dùng facebook. Có khi, tôi cũng quay quắt tìm, hỏi người này người kia, nhưng để làm gì cơ chứ, chẳng ai có một thông tin nào. Tôi biết tìm như thế nào khi có cảm giác như mình là kẻ mù tịt… Rồi tôi quay ra oán trách Thành, mối tình đầu của cậu ấy chỉ là như thế thôi sao, là cậu ấy bỏ tôi chơ vơ rồi đi về một miền trời khác mà không hề để lại bất cứ một dấu vết nào hay sao? Tôi thấy mình chẳng có ý nghĩa gì cả. Hay tất cả những kỷ niệm của quãng thời gian đã qua chẳng có ý nghĩa gì, chỉ là do tôi quan trọng hóa nó lên, chỉ một mình tôi nghĩ nó to lớn, đáng quý, còn cậu ấy thì không?
Tôi không chờ đợi nữa. Việc mà bấy lâu nay tôi hy vọng. Một ngày nào đó, Thành báo cho tôi một tín hiệu, gửi cho tôi một số điện thoại hay một địa chỉ email. Nói với tôi rằng cậu ấy vẫn khỏe, vẫn ổn. Có lẽ tôi sẽ bớt day dứt hơn. Tôi đã từng chờ đợi điều ấy, nhưng giờ tôi sẽ không chờ nữa, chờ cũng chẳng có gì vui vẻ, có thể sự chờ đợi có khi còn làm xói mòn cảm xúc nơi trái tim tôi. Tôi nghĩ rằng tôi nên yêu một ai đó, để đẩy hình bóng cậu ta ra khỏi trái tim mình. Không biết tôi đã nặng lòng quá chăng?
Rồi tôi gặp Vũ. Anh học cùng trường, anh học hơn tôi ba khóa. Chúng tôi làm việc cùng nhau trong bệnh viện. Anh học bác sỹ nội trú, khoa ngoại. Trong khi tôi là cô nàng đang học năm thứ tư. Chúng tôi có cảm tình với nhau. Rồi thời gian ở cạnh nhau khá nhiều, có khi đi trực cùng nhau, tình cảm bắt đầu nảy nở. Tôi đã từng mời anh về phòng trọ của tôi chơi. Cái phòng trọ nằm trên đồi giữa phố. Thật ra thì do tôi hằng ngày vẫn phải đạp xe đi học, từ chỗ trọ đến trường không xa lắm, nhưng nhiều dốc quá. Phải leo toàn dốc là dốc nên tôi cứ gọi rằng nhà tôi ở trên đồi. Công việc của Vũ cũng khá bận rộn, chỉ mấy tháng sau cùng là anh được nghỉ trực để làm luận văn, còn lại, thì thời gian ở bệnh viện nhiều hơn ở nhà.
Có lần, tôi đi xét nghiệm máu. Mặt tôi tái xanh khi anh là người đưa cho tôi tờ giấy kết quả xét nghiệm. Tôi xét nghiệm HIV. Thật ra thì cách đó một tuần. Có một ca cấp cứu, mà người được cấp cứu bị nhiễm HIV. Mặc dù đã mang găng tay và thật cẩn thận nhưng tôi vẫn cảm thấy sợ. Trở về phòng trọ, tôi nói với mấy anh chị cũng học Y trong dãy trọ mà lo lắng đến tái xanh cả mặt. Mấy anh, chị khuyên rằng, để bớt lo nên đi xét nghiệm cho chắc. Ở dãy trọ này, cũng có nhiều người ở mấy khóa trước rơi vào trường hợp giống như tôi rồi.
Đáng ra trong ngành, Vũ phải hiểu rằng đó là một điều bình thường. Có thể được xem là một tai nạn nghề nghiệp. Vậy mà Vũ  căn vặn tôi đủ đường. Mặc dù tôi đã nói đúng sự thật nhưng Vũ vẫn không tin. Gần chín năm học, Vũ chưa bao giờ rơi vào trường hợp như thế nên Vũ không hề hiểu. Tôi phát hiện ra rằng Vũ cố chấp quá. Và Vũ chưa bao giờ tin tôi, dù chỉ một lần.
Nghỉ hè được một tháng. Tôi về quê. Tôi để cho Vũ có thời gian suy nghĩ và để đầu tư làm luận văn tốt hơn. Tháng mười một này Vũ sẽ ra trường. Tôi trở về nhà buổi chiều, thì buổi tối mẹ đưa cho tôi một cái hộp lớn. Tôi loay hoay mở ra và òa khóc. Phải cả trăm lá thư của Thành. Bốn năm, Thành đã viết cho tôi đến cả trăm lá thư. Vậy mà mẹ không hề cho tôi xem. Mẹ giấu kỹ, giấu tiệt.
Tôi nước mắt giàn dụa, chạy lên phòng mẹ. Tôi muốn gặp mẹ và hỏi cho ra nhẽ vụ này, hỏi tại sao mẹ lại dấu thư của tôi. Tại sao mẹ làm như vậy?
Tôi khóc nhiều lắm, tôi hờn nhiều lắm. Mẹ nhìn tôi cũng khóc theo, mẹ bảo:
- Nhà chỉ có mỗi mình con. Con đi học ở Huế ba mẹ đã thấy xa. Mà thằng Thành nó định cư bên Pháp. Mẹ không muốn con lấy chồng xa như vậy. Nên mẹ giấu..
Tôi lững thững đi ra khỏi phòng. Tôi hiểu nỗi lòng của mẹ. Người lớn làm gì bao giờ cũng có lý do, dù có thế nào đi nữa thì cha mẹ cũng chỉ vì con cái mà thôi.
Tôi dành cả một tháng chỉ để viết lại đúng một trăm lá thư gửi Thành. Tôi nói rõ lý do đến bây giờ mới trả lời, và tôi cho Thành địa chỉ mới của tôi. Ở phòng trọ ngoài Huế.
Tôi trở lại trường. Vũ vẫn làm luận văn. Trong khoảng thời gian một tháng về nhà. Vũ chẳng hề gọi cho tôi một cuộc điện thoại. Tờ giấy xét nghiệm HIV của tôi, với Vũ là một cái gì đó kinh khủng lắm. Mãi đến sau này tôi mới hiểu, Vũ chỉ lấy đó làm cái cớ vì anh đã muốn rời xa tôi. Anh ra trường trước tôi đến mấy năm, anh sẽ về quê trước, sẽ đi làm. Và với tính đa nghi của anh, anh không thể chấp nhận chuyện yêu xa được. Tôi và Vũ chia tay. Tôi nói rõ những điều tôi nghĩ và thấy lòng mình nhẹ bẫng.

Thành hẹn Tết này sẽ về quê thăm bà. Cậu ấy vẫn đều đặn gửi thư cho tôi. Cậu ấy lập một tài khoản facebook mà chẳng bao giờ post cái gì lên tường. Cậu ấy chỉ muốn dõi theo tôi mà thôi. Thời gian xa cách đã quá lâu, tôi cũng đã từng cho mình cơ hội được yêu thêm lần nữa, và lần này, tôi còn có thể mở cửa trái tim mình thêm một lần nữa không. Tôi không biết. Mùa thu về rồi. Những cây bằng lăng ven sông lá đã bắt đầu đổi màu. Rồi mùa đông giá rét sẽ qua. Cây sẽ cho lộc và cho hoa mới. Mùa xuân.

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2016

CHƯ YANG SIN SỐ XUÂN BÍNH THÂN - 2016, tác giả LÂM HẠ




TRONG LÒNG GIÓ
Truyện ngắn
           


“Bố muốn chúng em đi Hàn”.
Tôi ngẩn người, ngụm trà đá đắng nơi cuống họng, cố nuốt.
Hà Nội đêm nay nổi gió, nồi lẩu đã nguội từ lâu. Thằng em gắp cho tôi mấy miếng thịt, giục chị ăn nhanh không bị đuổi như đuổi tà, vì quán vỉa hè.
“Chị lấy chồng đi, gần ba mươi rồi còn gì”.
Thằng em đưa ly rượu lên môi, uống cạn.
Từ lâu rồi, tôi không biết đến cảm giác mình có em trai.
Tôi những tưởng mình im lặng, mình sống cô quạnh, mình không đòi hỏi gì ở người đàn ông đã bỏ rơi mẹ mình thì chắc rằng người đàn bà đến sau sẽ hạnh phúc hơn, no đủ hơn, an vui hơn mẹ tôi. Nhưng đó là một nhầm lẫn tai hại, khi người đàn ông đã làm tổn thương trái tim một người đàn bà, thì chẳng vì lý do gì mà những người đàn bà đến sau nhận được hạnh phúc trọn vẹn cả. Đơn cử trường hợp của cha tôi.
“Chị về quê đi, bố không có nhà đâu”.
Thằng em út tinh tế hơn, vì nó biết tôi và cha chẳng thể nào nói chuyện như hai cha con quá vài phút đồng hồ. Những lần gặp nhau ngắn ngủi là những cuộc cãi vã, kể tội, nước mắt, hờn giận, và tôi thường là người bỏ đi.
Hai đứa em ngày ấy còn ngây dại, chỉ biết lén nhìn qua khe cửa.
Đường về quê thơm hương lúa, cái hương vị cũ bao năm chưa phai mờ trong ký ức của con bé sinh viên xa nhà. Mùi gió thốc vào ô cửa kính xe có dính mấy bả kẹo cao su ai đó cố tình bỏ lại. Tôi cắm tai nghe, nhắm mắt.
Sau mười năm bôn ba xứ người, cha về xây cho dì được ngôi nhà ba tầng. Tôi đứng chơ vơ giữa sân nhìn nên nóc nhà, nhớ đến nhà mình mỗi mùa mưa nước dột lênh láng.
“Dì định cho hai đứa đi xuất khẩu lao động ư?”.
“Bố mày muốn thế, ai cản được”.
Tôi cúi xuống bát cơm, khô khốc.
“Chiều nay dì nấu bát canh sấu nhé, cháu nhớ bát canh của ông nội quá”.
“Ừ”.
Mắt người đàn bà xa xăm, người đàn bà của cha.
Chiều, tôi lần theo dấu cỏ tìm về ngôi nhà ngày ông còn sống, nhà ấy bây giờ cỏ mọc hoang, mái sụt mất một góc. Cái khoảng sân ấy là nơi lần đầu tiên tôi gặp cha mình.
“Cháu chào chú”.
Tôi nhớ như in cái lần đầu tiên đó, tôi nhìn chằm chằm vào mắt người đàn ông lạ như một con thú hoang nhìn đối thủ, rồi lén nhìn sang mẹ. Năm đó tôi mười hai tuổi, cái tuổi chẳng còn khao khát được cha đưa đi học như đám bạn gái cùng lớp nữa.
Cái tuổi dậy thì đầy mẫn cảm.
Tôi đã khóc rất nhiều trong đêm đó.
Ngày hôm sau, quần áo tôi dính đầy mủ chuối, tác phẩm của hai thằng em trai.
Trên gò má thằng em út, hằn một vết lằn.
Tối muộn, dì chạy chợ chưa về, ông anh họ gọi tôi sang ăn cơm.
“Bảo cả dì mày về đây ăn tối luôn đi”.
Anh chị có ba đứa con gái, là cháu trai trưởng nên gắng cũng được thằng nhóc vài tháng, tôi giật mình.
“Anh chị còn cố thằng cu?”.
“Biết sao được”.
Chị dâu cười, vạch vú cho thằng nhỏ bú, nó ngủ say.
“Năm năm nay mày lang bạt những đâu thế?”.
Anh hỏi khi đã uống cạn lon bia.
“Em học xong thất nghiệp, đi buôn rượu”.
Ba cặp mắt nhìn tôi, trong im lặng.
“Ngày đó em đi buôn ở Đà Nẵng, chở rượu giao cho mấy quán nhậu, quản lý mấy em tiếp viên. Tối thì phục vụ quán cà phê”.
Anh mở lon bia thứ hai.
“Chở rượu có bữa mưa to, té xe bể mất nửa thùng, đi toi tháng lương. Chán, em vào Sài Gòn làm báo. Mấy thằng già mắc dịch tưởng ngon ăn, cứ dụ em đi miền Tây viết bài, mà đi ban đêm không mới cắc cớ”.
“Rồi sao?”
Chị dâu hỏi dồn.
“Giá mà ổng trẻ trẻ thì em liều đó, đằng này mấy chả già hơn cha em nữa. Nghĩ mình mà liều cũng mất dạy quá, nên em về Kom Tum, ngã ba Đông Dương, làm đài huyện”.
“Uống đi em”.
Anh cụng lon.
“Đời con không cha, cực lắm anh”.
Tôi nốc cạn.
“Con gái gần ba mươi chưa chồng, nhìn khô đét thế”.
Tôi cười giả lả, họ nhà nội tôi có tới mười bốn người, cha là con trái út. Đi từng ấy nhà, nghe những câu hỏi cùng một nội dung làm tôi hoang mang. Ai? Ai đã mặc định cho người con gái đến tuổi này phải lấy chồng, tuổi kia phải sinh con? Mà chẳng thấy ai dặn dò con gái hãy sống cho mình, làm những gì mình thích và sống như ý mình muốn.
“Cháu còn muốn rong chơi”.
Về quê mấy bữa, đi nhà nào ăn nhà đấy, chưa ăn được bát canh sấu của dì.
“Bố mày biết mày về chưa?”.
“Dạ chưa”.
“Thế không gọi điện thoại báo hả?”.
“Em không biết số”.
“Chán đời bố con nhà mày quá”.
Ông anh lục danh bạ, bấm máy.
“Mày nói chuyện đi”.
“Ba”.
“Ừ”.
“Con về quê mấy hôm”.
“Ba giữ gìn sức khỏe nhé”.
Cha con tôi, chẳng có mấy chuyện để nói.
“Bố con mày hay nhỉ”.
“Em chỉ mong mai kia em cưới chồng, ba em vào với em, để thiên hạ cũng biết em có cha, chớ không ai cũng nghĩ mẹ em đi xin con rơi”.
“Thế khi nào mày lấy chồng?”
“Em chẳng biết, sợ lắm”.
“Sợ gì?”.
“Sợ giống mẹ”.
“Dì đừng để hai đứa đi”.
Tôi húp cạn tô canh rau muống dầm sấu.
“Chúng nó lên chùa cả tháng, tao phải khóc mãi mới về. Bố mày chửi quá, chúng bỏ học lên Hà Nội tìm việc làm”.
Tôi nhớ ngày đầu tiên tôi làm sinh viên, chưa nhận phòng ký túc thì đã nghe tiếng cha quát lên từ phương trời xa lắc nào đó.
“Ở nhà lấy chồng đi, con gái học gì lắm”.
Đứa con gái chơi vơi, cô đơn giữa mùa đông xứ Bắc, xa mẹ. Tôi như con thú hoang cô quạnh trong cánh rừng lộng gió. Rồi từ trong giá lạnh, tôi mài sắc móng vuốt, tôi nguyện làm thú dữ.
Chẳng rõ vì nguyên cớ gì, tôi luôn hành hạ những chàng trai muốn đến gần tôi, bằng cách này hay cách khác. Chắc vì những trận đòn của mẹ thời thơ ấu, những cơn giận mẹ trút lên người tôi mỗi khi nhớ về cha.
Tôi lên lại Hà Nội, ở nhờ nhà nhỏ bạn thời sinh viên. Nhỏ có chồng, con trai một tuổi, từ bỏ ước mơ của cô phóng viên lang bạt ở nhà mở xưởng in thiệp cưới. Hai vợ chồng bận rộn, chăm con, và kiếm tiền trả nợ căn nhà mới mua.
Nhìn cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ, tôi tự hỏi mình đã bỏ lỡ những gì? Chẳng biết bao nhiêu lần, tôi từ chối cuộc sống giản dị đó.
“Tại sao xa Hà Nội lâu thế?”.
Nhỏ bạn hỏi khi đang thay tã cho con, tôi cười ngây ngô.
“Chưa đủ nhớ để trở về”.
Tôi ôm thằng nhóc, hôn nhẹ lên mái tóc tơ. Nó níu áo tôi đòi bế ra đầu ngõ, nơi lũ trẻ đang hò hét. Từ bản năng, tôi khao khát có con.
“Phòng mình còn mỗi cậu thôi đấy”.
Lần này quay lại Hà Nội đã dự đám cưới đứa con gái thứ chín trong phòng. Vì sao tôi xa Hà Nội lâu thế ư? Vì sợ, có một nỗi sợ mơ hồ sâu hun hút nào đó luôn ngự trị trong trái tim nhiều vết nứt của tôi. Tôi sợ sau tám năm, tôi vẫn một mình chênh vênh. Tôi sợ thấy tụi bạn đã có một gia đình hạnh phúc, đã tìm cho mình những giá trị giản đơn của cuộc đời vốn dĩ nhiều nỗi buồn này. Hay thiết thực hơn, làm sao tôi dám thú nhận với nhỏ bạn rằng tôi ganh tị biết chừng nào với nhỏ? Tôi cũng muốn có bàn tay ai đó nắm lấy tay mình, dắt tôi đi qua dòng đời đầy bão, cùng tôi chăm sóc con cái. Đôi khi, để cho cuộc sống bớt tẻ nhạt, chúng tôi còn giận hờn vu vơ nữa.
Tôi lén lau giọt nước mắt sau vạt áo của đứa trẻ, nụ cười trong veo của nó làm loang cả miền tuổi thơ tôi.
Ngày còn bé, tôi ít khi cười.
“Đàn ông cũng đáng thương lắm”.
Thằng em kế nói trong tiếng gió, Hà Nội giao mùa gió miên man.
Chưa bao giờ tôi nghĩ về điều đó, về những tổn thương tôi đã gây ra cho những người đàn ông chân thành. Cái bóng của cha tôi quá lớn, che mờ đôi mắt nghi kỵ của tôi, đôi mắt của đứa trẻ năm tuổi nhìn cha qua ô cửa xe mờ hơi lạnh. Đôi mắt của đứa con gái mòn mỏi chờ đợi một hình ảnh người cha mãi chẳng trở về.
Bất giác, tôi nhìn lên má thằng út, còn sẹo.
“Em có tha thứ cho chị không?”.
Nó cười.
Tôi đã trách mẹ tại sao lại trút giận lên tôi? Vậy còn tôi, tôi có trút nỗi ích kỷ và hờn giận của đứa con gái mười hai tuổi lên em mình không? Tôi đã từng ganh tị với chúng, vì chúng có cha. Trong giấc mơ tôi thường thấy mình đứng lẻ loi bên triền đê xanh xa ngái, nhìn cha cõng hai đứa đến trường, mua cho chúng thật nhiều đồ chơi và quần áo mới.
Nhưng đó chỉ là những giấc mơ.
Cha vẫn thường theo đuổi những ảo vọng mơ hồ, về một miền đất hứa nào đó. Và tỉnh mộng với cơm áo gạo tiền, cha hờn giận cuộc đời, và ra đi.
Đến khi nào cha mới dừng lại và nhìn phía sau mình?
“Em sẽ đi”.
Lòng tôi se sắt.
Tôi tự hỏi nếu ngày đó tôi không đi học, không cố gắng lấy cái bằng đại học báo chí mà đi làm, mà ôm giấc mơ làm giàu nơi xứ lạ thì liệu mẹ tôi có được ngôi nhà mới không dột mưa? Liệu hai đứa em trai có được làm sinh viên nơi giảng đường thay vì là nhân viên phục vụ nhà hàng?
“Em muốn thằng út được đi học”.
Tôi biết, với tôi tấm bằng đại học bây giờ chỉ đánh dấu ba năm xa nhà, ba năm mơ mộng đầy hoài bão đã bị cuộc đời đập tan thành từng mảnh vụn. Một đứa con gái buôn rượu không cần bằng đại học, một nhân viên phục vụ quán cà phê  không cần bằng đại học, một MC tiệc cưới nhàng nhàng nơi làng quê cũng không cần bằng đại học. Nhưng nếu nói đổi những năm tháng ấy, thì chẳng có giá nào để tôi đánh đổi cả. Tháng ngày đó, tôi đã vẽ mộng trên ban công thư viện quốc gia về một tương lai nhiều màu sắc sặc sỡ, những chú sẻ nâu trên nhánh lá bàng đã dệt cho tôi cái tổ ấm cất giữ nụ hôn đầu đời ngày đầu đông, vương đâu đó hương hoa ngọc lan cuối thu dịu ngọt.
Tôi cũng muốn em tôi được bước chân lên giảng đường, dù tôi biết có thể khi ra trường, nó sẽ vẫn là một nhân viên phúc vụ nhà hàng.
“Chị xin lỗi”.
Tôi đưa tay xoa vết sẹo mờ trên má em trai.
“Chị đừng nghĩ nhiều nữa, lấy chồng đi. Mọi chuyện sẽ ổn thôi”.
Tôi chưa từng nghĩ rằng chúng đã trưởng thành. Trong mắt tôi, chúng vẫn chỉ là hai đứa trẻ chảy nước mũi sau ô cửa nhỏ. Chúng nhìn thấy nỗi sợ của tôi, của đứa chị gái luôn chạy trốn tuổi thơ mình. Bây giờ thì tôi đã biết, mình tìm kiếm điều gì giữa cuộc đời này.
Tôi khóc.
“Chúng mình sống cuộc đời của chúng mình đi”.
Em trai tôi nói nhỏ, thoảng như hơi gió.
Gió mạnh, gió thốc vào tận khoảng tim vỡ của tôi, buốt giá. Ba chị em tôi ngồi trong gió. Tôi muốn ôm hết gió vào lòng, để tung hê hết cái quá khứ nhiều vết cứa, để xóa mờ khoảng cách giữa chúng tôi, khoảng cách giữa hai buồng trứng.
“Mình về thôi chị, lạnh rồi.”
Gió hong khô mước mắt tôi.
Chúng chưa bao giờ hạnh phúc như tôi nghĩ.
Tôi về nhà trong âm thầm. Ân hận, xấu hổ, hay vì sợ hãi? Tôi không chào bạn bè, giữ trong mình nhiều gió.
“Đừng đi”.
Tôi nhắn tin cho em trai, hàng trăm tin nhắn với một nội dung ấy.
Tôi không biết cha tôi mơ gì, tôi cũng không còn quan tâm cha thương ai nhất trong ba đứa con cha chưa bao giờ chăm bẵm. Tôi chỉ biết, chúng tôi, những đứa trẻ được số phận giao cho mối ràng buộc tình thân giữa cuộc đời này, nên sống cuộc đời như chúng tôi muốn.
“Em sẽ tập ăn kim chi.”
Dòng tin nhắn vào buổi chiều tàn, mùa khô nơi này gió mạnh, cánh dã quỳ vàng một góc trời.
Tôi sẽ tập yêu, và tập muối kim chi.