Thứ Ba, 19 tháng 12, 2017

CON SÓI - tác giả Henri René Albert Guy de Maupassant - CHƯ YANG SIN SỐ: 303 - THÁNG 11 NĂM 2017

TRANG VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

Henri René Albert Guy de Maupassant sinh ngày 5.8.1850 tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, là nhà văn Pháp, được cho là một tác giả bậc thầy của thể loại truyện ngắn và là một đại biểu của trường phái hiện thực phê phán. Ông viết khoảng 300 truyện ngắn, sáu tiểu thuyết, ba tập sách du ký và một tập thơ. Truyện ngắn đầu tiên của ông được in là “Boule de Suif / Ball of fat/ Viên mỡ bò”thường được đánh giá là tuyệt tác. Các tác phẩm chính nổi tiếng khác là Pierre et Jean/Piere và Jean, Un vie/Một cuộc đời, Bel Ami/ Ông bạn đẹp.
Ông mất ngày 6.7.1893 tại Paris, Pháp.
  

Đây là những gì hầu tước d’Arville kể cho chúng tôi sau bữa ăn lễ thánh St. Hubert tại nhà của nam tước des Ravels.
Chúng tôi đã săn được một con nai vào ngày hôm đó. Ông hầu tước là người duy nhất trong số khách không tham gia vào cuộc săn này. Ông không bao giờ đi săn.
Trong khi dự bữa tiệc kéo dài đó chúng tôi hầu như không nói gì ngoài việc săn bắt thú. Tự thân quý bà đã ham thích những câu chuyện phóng đại và dữ dội, và những người kể đã thể hiện lại những vụ tấn công và chiến đấu giữa người và thú, họ vung tay lên, nói bằng giọng hùng hồn.
Hầu tước d’Arvill nói lưu loát, bằng một phong cách khoa trương, hoa mỹ nhưng hiệu quả. Chắc là ông đã thường kể câu chuyện này, vì ông nói trôi chảy, không hề ngập ngừng để chọn lời, để làm cho câu chuyện của ông sống động.  
Thưa quý ông, tôi không hề đi săn, cha tôi cũng không, ông nội tôi cũng không, mà ông cố tôi cũng không hề đi săn. Ông cố tôi là con của một người đi săn nhiều hơn tất cả quý ông cộng lại. Ông ấy chết năm 1764. Tôi sẽ kể cho quý bạn nghe câu chuyện về cái chết của ông.
Tên ông là Jean. Ông đã kết hôn, là cha của người tôi gọi là ông cố, và ông sống chung với người em trai, tên là Francois d’Arville, trong lâu đài ở Lorraine, giữa rừng.
Francois d’Arville vẫn còn độc thân vì tình yêu của ông dành cho thú săn bắn.
Cả hai người đi săn từ đầu năm đến cuối năm, không ngừng và không mệt mỏi. Họ chỉ yêu thích việc săn bắn, không hiểu điều gì khác, chỉ nói về chuyện săn bắn, sống để săn bắn.
Họ có trong tâm khảm niềm đam mê kinh khủng và không suy giảm đó. Niềm đam mê đó chiếm hết tâm trí họ, hoàn toàn thu hút họ, không chừa chỗ cho ý tưởng nào khác.
Họ đã ra lệnh rằng không ai được gây trở ngại cho họ trong cuộc săn vì bất kỳ lý do nào. Ông cố tôi được sinh ra trong khi cha ông đang rượt theo một con cáo, và Jean d’Arville không dừng cuộc săn, mà kêu lên: “Phiền quá! Thằng nhóc đó lẽ ra phải đợi cho tới khi xong cuộc săn chứ!”
Francois em trai ông thì còn đam mê hơn. Ngủ dậy là ông ấy đi thăm chó săn, rồi thăm ngựa, rồi bắn những con chim nhỏ chung quanh lâu đài cho tới khi đi săn một trận ra trò.
Ở vùng quê đó họ được gọi là ông hầu tước và ông Út, giới quý tộc hồi ấy không giống với giới quý tộc thời nay là ước ao có được danh hiệu kế tập từ dòng họ; vì con của một ông hầu tước, hay bá tước, hay tử tước thì không hơn gì con một viên tướng khi sinh ra. Nhưng tính tự phụ đáng khinh ngày nay lại tìm thấy lợi ích trong sự thừa kế tước hiệu đó.
Các vị tiền bối của tôi thường là cao, to xương, rậm lông, dữ dội và tràn đầy sinh lực. Ông em còn cao hơn ông anh, có một giọng nói mạnh mẽ đến mức, theo một huyền thoại mà ông hãnh diện, là lá cây rừng rung lên khi ông quát.
Khi cả hai lên yên ngựa để đi săn, nhất định đó là một cảnh tượng oai nghi khi nhìn hai con người cường tráng ngồi trên những con ngựa cao to.
Bây giờ, trở về khoảng giữa mùa đông năm đó, 1764, trời rất nhiều sương giá và những con sói trở nên hung dữ.
Chúng tấn công những người nông dân về trễ, lang thang vào ban đêm bên ngoài những ngôi nhà, tru lên từ hừng đông cho đến hoàng hôn, và sát hại thú trong các chuồng nuôi gia súc.
Chẳng mấy chốc lời đồn đại lan truyền. Người ta nói về một con sói cực kỳ lớn có bộ lông xám, gần như trắng, đã ăn thịt hai đứa bé, gặm đứt cánh tay một phụ nữ, đè bẹp mọi con chó giữ nhà trong xã, và thậm chí không sợ hãi vào tận những sân trại. Người trong các ngôi nhà xác nhận rằng họ cảm thấy hơi thở của nó, và hơi thở ấy làm cho ánh đèn lắt lay. Chẳng bao lâu sự hoảng sợ lan ra khắp vùng. Không còn ai dám ra khỏi nhà khi đêm xuống. Bóng đêm dường như đầy ám ảnh bởi hình ảnh của con thú.
Anh em nhà d’Arville quyết định tìm giết con thú, và nhiều lần họ tập hợp đủ các quý ông trong vùng để tổ chức một cuộc săn lớn.
Họ lùng sục các khu rừng, sục sạo các bụi rậm, lùm cây, hang ổ trong vô vọng; họ không khi nào thấy nó. Họ đã giết nhiều con sói, nhưng không phải là con sói đó. Và mỗi đêm sau cuộc săn, như thể con thú trả thù, nó đã tấn công mấy người đi đường và giết mấy con vật nuôi, luôn luôn ở xa nơi họ tìm kiếm nó.
Sau cùng, một đêm nọ nó lẻn vào chuồng lợn của lâu đài d’Arville và ăn hai con lợn béo nhất.
Hai anh em họ tức giận, cho rằng vụ tấn công này là một sỉ nhục trực tiếp và là một sự khiêu chiến với họ. Họ chọn những con chó săn sung sức chuyên dùng để theo dấu những con thú nguy hiểm, và họ tổ chức đi săn, lòng tràn đầy căm tức.
Từ bình minh cho tới khi vầng dương đỏ tía lặn sau rừng cổ thụ, họ lùng sục cánh rừng nhưng không tìm thấy gì.
Cuối cùng, cả hai giận dữ và căm tức trở về, cho ngựa đi theo con đường hai bên có bờ giậu, và họ bực bội không hiểu tại sao kỹ năng săn bắt tài giỏi của thợ săn chuyên nghiệp như họ lại bị gây khó bởi con sói này, và họ bất chợt cảm thấy một nỗi âu lo bí ẩn.
Người anh nói:
“Con thú đó không phải là một con thú bình thường. Phải nói rằng nó có một bộ óc như của con người.”
Người em đáp:
“Có lẽ chúng ta nên có một viên đạn được ban phước bởi vị giám mục cháu của ta, hay nhờ một linh mục nào đọc kinh trợ giúp.”
Rồi họ im lặng.
Jean tiếp tục:
“Hãy nhìn mặt trời đỏ như thế kia. Con sói vĩ đại sẽ tác quái đêm nay.”
Ông không kịp nói hết thì con ngựa của ông hếch đầu lên; còn ngựa của Francois thì bắt đầu đá. Một khoảng rừng rậm đầy những lá rụng phía trước mặt họ, và một con thú khổng lồ, toàn thân màu xám, phóng lên và chạy băng qua rừng.
Cả hai phát ra tiếng cười sung sướng, và rạp mình trên lưng hai con ngựa dũng mãnh, họ thúc ngựa phi tới trước với sự thôi thúc của toàn thân, thúc giục chúng cứ phi với tốc độ như thế, hối thúc chúng, kích thích chúng bằng giọng nói và cử chỉ, với chân gài cựa thúc ngựa, đến mức những tay cưỡi ngựa đầy kinh nghiệm như họ tưởng chừng như đang mang những con thú nặng giữa 4 chân đưa họ đi như thể họ đang bay.
Cứ thế họ phóng qua rừng rậm, qua những dòng suối, lên những triền đồi, xuống những hẻm núi, và thổi kèn to hết mức để kêu gọi người và chó của họ trợ thủ.
Rồi bất chợt, trong tốc độ cuồng nộ đó, vị tiền bối của tôi đập trán vào một cành cây lớn làm bể đầu ông; và ông té xuống đất, trong khi con ngựa sợ hãi đã để rơi ông xuống, phóng biến vào bóng râm âm u bao phủ cánh rừng.
Ông d’Arville em vội dừng ngựa, nhảy xuống đất, ôm lấy người anh và thấy não của anh đang chảy ra từ vết thương.
Rồi ông ngồi bên xác anh, đặt cái đầu đẫm máu bị biến dạng lên đầu gối, nhìn khuôn mặt bất động của anh. Một nỗi sợ dần dần xâm chiếm ông, một nỗi sợ lạ lùng mà ông chưa hề cảm thấy trước đây, nỗi sợ bóng tối, sợ sự cô độc, sợ cánh rừng hoang vắng, và cũng sợ con quái thú vừa làm chết anh mình trả thù cả hai anh em.
Bóng tối dầy đặc, khí trời lạnh gắt làm cây rừng kêu lắc rắc. Francois đứng dậy, rùng mình, không thể nào ở lại đó lâu hơn nữa, cảm thấy mình chợt yếu đi. Không nghe thấy gì, không có tiếng chó hay tiếng kèn nào – tất cả chỉ là sự yên lặng; và sự yên lặng ảm đạm này của đêm đông lạnh có vẻ gì đó lạ lùng đáng sợ.
Ông đưa hai bàn tay lớn dựng xác của Jean thẳng lên, đặt nằm ngang trên lưng ngựa để đưa về lâu đài; rồi ông lặng lẽ lên đường, đầu ông như trong trạng thái sững sờ, bị ám bởi những hình ảnh khủng khiếp đáng sợ.
Và bất chợt, trong bóng tối đang dâng lên một cái bóng lớn băng ngang qua lối đi của ông. Chính là con thú. Một cơn hoảng sợ làm người thợ săn chấn động lạnh mình, giống như có một giọt nước lăn xuống lưng, và, như một tu sĩ bị ám ảnh về quỷ dữ, ông làm dấu thập giá, xuống tinh thần vì sự trở lại đột ngột của con thú kinh khủng này. Nhưng mắt ông nhìn xuống cái xác vô hồn trước mặt, và bất chợt sự sợ hãi chuyển sang giận dữ, ông run lên với cơn tức giận không thể diễn tả.
Ông thúc ngựa rượt theo con sói.
Ông rượt theo nó qua những bãi cây, những hẻm núi, và những cánh rừng mà ông không còn nhận ra, mắt ông đăm đăm nhìn đốm trắng phóng như bay phía trước ông trong bóng đêm.
Con ngựa của ông dường như vận động theo một lực thôi thúc với sức mạnh lạ lùng. Nó phi thẳng tới trước với chiếc cổ vươn lên, thân cọ vào cây rừng và đá, đầu và chân của người chết vắt hai bên lưng ngựa. Những cành cây cào vào tóc, trán, đập vào thân, làm vãi máu; cựa thúc ngựa cào những lớp vỏ cây tróc. Đột nhiên con thú và người kỵ sĩ hiện ra từ cánh rừng và phóng vào một thung lũng, vừa khi vầng trăng lên trên đỉnh núi. Thung lũng này đầy đá, vây quanh bởi những tảng đá khổng lồ.
Francois phát ra một tiếng hét vui sướng mà âm thanh vọng lại giống như tràng sấm rền, và ông nhảy xuống ngựa, thanh kiếm cầm trong tay.
Con thú, với bộ lông thô ráp, lưng uốn cong, đứng đợi ông, đôi mắt nó long lanh như hai đốm sao. Nhưng, trước khi trận chiến bắt đầu, người kỵ sĩ cường tráng ôm xác người anh đặt trên một tảng đá, lót những viên đá phía dưới đầu anh, bây giờ chỉ là một khối máu lớn, ông nói to vào tai người chết như nói với một người điếc: “Xem nè, Jean, hãy xem nè!”
Rồi ông tấn công con thú dữ. Ông cảm thấy mình mạnh đủ để lật cả một quả núi, nghiền những hòn đá trong tay. Con thú cố cắn ông, nó nhắm vào bụng ông; nhưng ông đã chụp con thú hung dữ ngay cổ, và thậm chí không dùng đến vũ khí, ông siết cổ nó, lắng nghe tiếng thở đang dừng lại trong họng nó và nhịp tim đang dừng đập của nó. Ông cười, cười hoang dại vì vui sướng, siết càng lúc càng sát hơn cú siết ghê gớm, kêu lên trong niềm vui cuồng nhiệt, “Xem nè Jean, xem nè!” Mọi sự kháng cự chấm dứt, xác con sói mềm đi. Nó chết.
Francois nhấc con sói lên đem lại đặt dưới chân anh trai, lập lại, bằng giọng nhẹ nhàng: “Nó đó, anh Jean của em, nhìn nó đi!”
Rồi ông đặt lên lưng ngựa cả hai cái xác, chồng lên nhau, và lên đường.
Ông trở về lâu đài, cười và khóc, giống như người khổng lồ Gargantua lúc sinh Pantagruel*, phát ra những tiếng reo chiến thắng, và sôi nổi vì niềm vui khi thuật lại cái chết của con thú, khổ đau và vặn râu khi kể về cái chết của anh ông.
Về sau này, thường khi ông kể lại về ngày hôm đó, ông nói trong ngấn lệ: “Giá mà anh Jean tội nghiệp của tôi thấy được tôi siết cổ con thú, hẳn anh đã chết bình tâm, tôi chắc chắn như thế!”
Người vợ góa của tiền bối tôi truyền cho đứa con trai mồ côi cha của bà sự kinh hoàng của cuộc săn và tự nó đã truyền từ cha sang con cho đến tận tôi.
Hầu tước d’Arville im lặng. Một người hỏi:
“Truyện đó là một huyền thoại, đúng không?”
Người kể chuyện trả lời:
“Tôi thề rằng truyện thật từ đầu tới cuối.”
Lúc ấy một quý bà nói bằng giọng nhỏ nhẹ:
“Dù sao thì cũng tốt khi có những đam mê như thế.”
VÕ HOÀNG MINH dịch
   (Từ bản tiếng Anh “The wolf”)

  
______
* Gargantua và Pantagruel: nhân vật trong tiểu thuyết “The life of Gargantua và Pantagruel/ Cuộc đời của Gargantua và Pantagruel”, tác phẩm của Francois Rabelais viết trong thế kỷ 16, kể về những cuộc phiêu lưu của hai người khổng lồ, là Gargantua và con trai là Pantagruel.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI