Trong những ngày cuối tháng bảy vừa qua, dân nhậu ở huyện
Ea Kar, tỉnh Đăk Lăk loan đi bản tin rất đáng lưu ý: muốn ăn đặc sản chim én hãy
vào xã Chư Zang! Không biết tin đó đúng sai thế nào mà người ta đổ xô vào để tận
hưởng món thực phẩm mới, lạ, hấp dẫn, kéo theo cả sự tò mò. Tuy không phải là đệ
tử của “thần Lưu Linh” nhưng cái tin có “đặc sản chim én” làm tôi phân vân nửa
tin, nửa ngờ và nảy ra ý định thử vào tận nơi xem sao. Biết đâu mấy tay bơm nhậu
rủ nhau đi ăn thịt “rắn vuông” cũng nên.
I/. Đường vào Chư Zang.
Sáng chủ nhật mùng hai tháng tám, tôi phóng xe máy từ thị
trấn Ea Kar vào xã Chư Zang. Con đường dài chưa đến 40 km nay đã được rãi đá cấp
phối nên đi lại khá tốt, không giống như mấy năm trước cũng con đường này nếu đi
vào mùa mưa xe máy phải đi mất cả buổi và chuẩn bị vài chục ngàn tiền lẻ trả tiền
đi nhờ đất, nhờ cầu. Quả thật chuyện thật trăm phần trăm mà nghe như bịa. Hồi đó
đoạn đường đi qua xã Ea Păn để vào xã Chư Zang vì xe ôtô, xe máy cày chạy nhiều
nên có đoạn bị lún xuống như ruộng, không thể nào đi xe đạp hay xe máy qua được;
buộc lòng người ta phải đi tránh chỗ lầy ấy vào góc vườn của một nhà bên cạnh đường
dài khoảng 20 mét. Chủ nhà rất vui lòng cho đi nhờ với điều kiện một xe máy đi
qua phải trả 1000 đồng còn xe đạp 500 đồng. Tính ra mỗi lần đi nhờ trên đất của
người ta mỗi mét phải trả 50 đồng. Chưa hết, cây cầu xi măng bắc qua con suối
nhỏ chỉ cách Uỷ ban xã Ea Păn khoảng 200 mét bị lũ cuốn trôi mất một đoạn đường
ngay đầu cầu rộng chừng hai mét. Một người dân gần đó sẵn lòng giúp người qua đường
“làm phúc”, tự mang mấy tấm ván nhỏ bắc qua chỗ sạt để người đi xe máy, xe đạp
có thể qua lại và chỉ “xin” trả công cũng đúng 1000 đồng một lần qua của xe máy
và 500 đồng đối với xe đạp. Làm phép tính đơn giản ta thấy mỗi mét đi nhờ “cây
cầu” phải trả 500 đồng. Nhưng muốn đến UBND xã Chư Zang phải qua hai cây cầu như
vậy và giá cả như nhau. Ấy là chưa kể muốn vào mấy xóm phía tây của xã phải đi
qua một con đò mà giá “mềm” một chuyến cũng phải trả không dưới 10.000 đồng cho
một lượt người. Còn hôm nay xe chạy rất êm, không gặp ổ gà, ổ voi nào cả. Có lẽ
vì đường đi thuận tiện thế này nên mấy tay buôn bán thú rừng, sành ăn, mò vào đây
cũng phải.
Theo chỉ dẫn của người bạn đi cùng đường: đi tới trạm xá
xã Chư Zang, rẽ phải qua cầu Bò độ một kilômét, rẽ trái thêm ba kilômét nữa là đến
đội 12 nông trường 717. Đoạn đường này khó đi vì phải men theo những lô cà phê
xanh tốt um tùm, cây nào cây ấy cành trĩu quả. Có lẽ cái nắng hạn kéo dài vừa
qua của vùng Đăk lăk không ảnh hưởng gì đến vùng này.
Con đường ngoằn nghèo đưa tôi đến trước một con hồ chiều
ngang không lấy gì làm lớn lắm; chỗ rộng nhất khoảng ba trăm mét, còn chiều dài
có lẽ không dưới năm kilômét. Trên hồ thuyền to, thuyền nhỏ tấp nập đi lại.
II/. Du ngoạn trên hồ.
Đang mãi ngắm hồ, bổng thấy có người vỗ vai hỏi: “Anh vào
chơi à!”. Quay lại tôi nhận ra anh Phạm Công Đức, giáo viên dạy trường THCS Đinh
Tiên Hoàng, xã Ea Tý về nghỉ hè tại đây. Biết tôi muốn xem nghề “săn chim én”,
anh tận tình cất xe và nhờ người chèo thuyền dẫn đi. Trước khi chia tay, anh nói:
“Trăm nghe không bằng một thấy” ông xuóng đó sẽ rõ!
Mới chín giờ sáng mà thuyền neo ở bến bốn cái, không có ai
trên thuyền. Người dẫn đường bảo: “chủ nhân của nó mang chim ra chợ rồi”! Chỉ mấy
phút sau lại có ba chiếc nữa cập bến; mỗi thuyền có hai người, khi họ rời thuyền
mỗi người xáh trên tay hai cái lồng lớn đầy chim én. Qua trao đổi cùng người
thanh niên khoảng hai mốt, hai hai tuổi xách chim én lên bờ đầu tiên, tôi được
biết những người bắt chim Én đi từ lúc năm giờ sáng và bắt đến tám rưỡi, chín
giờ, tuỳ theo én nhiều hay ít rồi về; chiều ba giờ đi bắt tiếp đến sáu giờ tối.
Mỗi buổi đi bắt nếu nhiều được năm bảy trăm con, còn ít cũng được trên dưới trăm
con. Cái nghề này xem ra “phát đạt” đa số những nhà gần hồ đua nhau hành nghề.
Thuyền chúng tôi rời “bến” ra hồ. Gọi là “bến” những đó
chỉ là một lạch nước ăn sâu vào khu đất cao, đầu con đường cụt. Nhiều nhà xa hồ
phải để thuyền tại đây nên thành “bến”, còn những nhà sát bờ hồ đều có bến riêng
của họ. Theo tay anh bạn chèo thuyền chỉ, tôi thấy trên hồ có rất nhiều điểm bẩy
én, cách bẫy khá đơn giản; trước tiên chọn hai cây trúc hoặc cành tre khô cao độ
hai mét (không kể phần cắm dưới đất) buộc vít lại với nhau, trên đỉnh gò đất nổi
trên mặt hồ, dưới gốc cây cắt cỏ gianh làm thành cái chòi nhỏ cao độ một mét, rộng
bằng khu đất nổi. Thế là xong công việc
chính, việc còn lại thì đơn giản: dùng một cây sào dài một đầu có quét
nhựa để dính các chủ chim én khờ khạo đến đậu trên hai cây trúc buộc sẵn trên
chòi. Để dụ chim đến đậu người ta buộc sẵn một con chim én mồi. Con chim mồi tội
nghiệp này bị khâu cả hai mắt không dám bay mà chỉ đứng kêu những tiếng kêu đau
khổ, tắt nghẹn. Nó đâu biết những tiếng kêu bi thương đó đã gây nên tội ác đẩy đồng
loại vào chỗ chết. Những con chim én tự do vượt hàng vạn kilômét đi tránh đông đến
đây thấy tiếng kêu đau đớn cuả đồng loại vội dừng cánh trên các cành trúc. Chỉ
chờ có thế, người thợ “săn” núp phía dưới nhẹ nhàng đưa cây sào đã quét nhựa chạm
vào người chim và kéo xuống bỏ vào lồng. Các con khác không biết cứ lao đến đậu,
người thợ “săn” phải nhanh tay và khéo léo tóm từng con, từng con cho đến hết.
Sau một buổi săn người ta lại thay bằng con mồi mới, còn con cũ đã kiệt sức không
dùng được nữa.
Trên mặt hồ ngoài thuyền bắt chim én ra còn có thuyền đánh
cá cũng khá nhiều và hoạt động cả ngày. Chim chóc ở đây cũng nhiều. Bầy vịt trời
khoảng ngàn con mãi mê kiếm ăn, thuyền đi sát tới nơi mới lười nhác vỗ cánh bay
một đọan lại đáp xuống. Trên các đám cỏ năn từng bầy chim Két màu xanh biết, mào
đỏ chót đứng trên đôi chân cao kều cứ nghển cổ nhìn người chèo thuyền; có lẽ trên
hồ loài chim này lớn nhất, lớn hơn cả vịt trời. Ngoài ra, trên hồ còn có gà nước,
le le rất nhiều bơi lội tung tăng trên mặt nước.
III/. Đặc sản chim én.
Muốn có thịt én để “nhậu” ắt người ta phải nghỉ cách bắt.
Cái nghề bẫy chim én không biết bắt đầu từ ai và có từ lúc nào không ai còn nhớ.
Song người dân ở đây cho biết cứ tháng hai, tháng ba là mùa “tiểu én” - én về ít,
còn tháng bảy, tháng tám là mùa “đại én” - én về nhiều và bắt cũng được nhiều.
Mỗi con én giá chỉ hai trăm đồng. Nếu bắt một ngày măy mắn cũng có thể kiếm vài
trăm ngàn. Việc lại nhàn hạ, không vất vả gì nhiều. Mùa này học sinh nghỉ hè nên
cũng được huy động tham gia bắt én rất đông. Quả thật đây là nghề nhanø nhã mà
“hái ra tiền”!
Tôi nhẩm tính riêng khu vực ven hồ đội 12 nông trường 717,
xã Chư Zang mỗi ngày có khoảng hai chục cái “bẫy” bắt chim Éùn hoạt động thì một
ngày trên dưới xấp xỉ mười nghìn con én phải vào lồng; một tháng con số đó sẽ là
ba trăm ngàn con. Một con số khổng lồ đủ để cung cấp cho dân hành nghề kinh
doanh“đặc sản” vận chuyển đi đâu không rõ.
Thịt chim én thơm và ăn rất dòn, có người quả quyết ngon
hơn thịt bồ câu nhiều lần; cách làm thịt cũng đơn giản: vặt sạch lông, thui qua
lửa rơm cho vàng, rửa sạch, mổ bụng moi lòng bỏ đi, rồi nhét thêm mấy hạt sen,
hạt lạc đã ngâm nước vào bụng, ướp gia vị để độ năm phút rồi đem nấu.
Có ba món chính được chế biến từ chim én là: nướng, chiên
dầu và tẩm bột xào lăn. Nếu nướng người ta chọn chiếc lá chanh hoặc lá bưởi cuộn
tròn con én đã tẩm gia vị bỏ vào vĩ đặt lên bếp tham hồng. Người nướng phải quạt
liên tục mới không bị tắt than. Mở trên mình chim chảy xuống than hồng toả mùi
thơm ngào ngạt kích thích nước miếng ứa ra đầy miệng. Thịt chín được xếp lên đĩa
có lót rau xà lách và một ít lá hành, ngò, mùi tàu. Khi ăn, quấn thêm các loại
rau thơm quanh miếng thịt, bỏ vào miệng ăn, vị ngọt đậm đà quện vào đầu lưỡi; mùi
thơm của thịt én rất riêng biệt tạo cho ta cảm giác lâng lâng.
Thịt én ngon thật! Và người ta đồn rằng có ba vị chức sắc
nọ vào thưởng thức “đặc sản chim én” một lần hết ba thùng Tiegr và 1.000 con
chim én. Nhiều ngươì ăn quen đâm nghiện và có lẽ vì thế người ta đổ xô đi săn chim
én hình thành một làng nghề “hái ra tiền”, ai mà chẳng ham.
Chỉ tội con chim én, sứ giả của mùa xuân, biểu tượnh của
tình yêu thiên nhiên mãnh liệt; tuy thân hình bé nhỏ nhưng can đảm tuyệt vời đã
tung cánh bay liên tục một nửa vòng trái đất về đến đây được đón tiếp nồng nhiệt
trên bàn nhậu. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, bầy trẻ chăn trâu bao giờ cũng náo nức chào
đón bầy én bay rợp trời trở về phương bắc khi hoa đào nở rộ. Không ai nỡ làm hại
chúng dù chỉ là va chạm nhẹ. Còn giờ đây người ta đang tôn chúng lên hàng “đặc
sản” và cứ đà này thì không bao lâu nữa con cái chúng ta chỉ biết đến loài chim
én qua sách vở mà thôi. Tôi nghiệp loài chim bé nhỏ, can trường, giàu lòng trắc
ẩn và tình đồng loại mà mất dần, mất dần.
Rời xã Chư Zang tôi còn nghe thấy tiếng kêu khắc khoải của
con chim én tội nghiệp vang vọng trong tâm. Không biết những người có trách nhiêïm
gần đó có nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng ấy không? Hay họ chỉ còn nghe vương vấn
mùi thơm đặc sản “chim én”.
IV/.Khúc vỹ thanh.
Viết xong bài ký này, tôi mang đọc cho mấy người bạn hàng
xóm cùng nghe. Một người bạn có vẻ đắc ý cứ gật gu, gật gùø một chặp rồi bất ngờ
chỉ vào mặt tôi phán một câu tỉnh khô: Anh đúng là người “ngoài hành tinh”! Tôi
giật mình hỏi: “Tại sao ông lại nói thế?” Anh ta mới thủng thẳng trả lời: “còn
không đúng sao! Bây giờ cần gì phải vất vả vào Chư Zang, xứ “khỉ ho cò gáy ấy” để
xem chim én. Ngay ở chợ Bình Minh thị trấn Ea Knốp này thôi, buổi sáng muốn mua
bao nhiêu chim Én mà chẳng có. Ông không tin sáng mai ra xem”!
Có thể nói không ngoa, thị trấn Ea Knốp, huyện Eakar là
thị trấn công nghiệp đứng vào hàng lớn nhất nhì của tỉnh Đăk Lăk. Vậy người ta
bán buôn loài chim quý trái pháp luật như vậy mà vẫn tồn tại tại đây chăng? Không
thể nào có chuyện đó xảy ra được; tôi muốn tin như vậy. Thật không ngờ sáng hôm
sau tôi theo người bạn ra chợ Bình Minh và chứng kiến người ta bán bốn cái lồng
đầy chim én to đùng ngay tại hàng gà. Mỗi lồng nhốt tới hàng ngàn con. Cô bán hàng
đon đả: “Mua đi các anh, hôm nay có ít; không mua là hết phần đấy”! Tôi ngao ngán
đứng nhìn người ta đổ xô vào mua én; người mua năm bảy chục, người trăm, hơn trăm
con; song cũng có người mua đúng hai con. Tò mò, tôi hỏi một người mua: “Sao
anh mua ít vậy?” Người mua, cười trả lời: “À, rẻ quá chỉ 500 đồng một con, mua
về cho bọn trẻ chơi.”
Thật buồn cho “sứ giả mùa xuân”; người ta sao mà vô tình đến
vậy? Nhưng cũng phải thôi, người bắt được chim bán 150 đồng một con và người chở
én đi chưa đầy 40 km giá đã lên 500 đồng một con. Lãi to thật! Nhưng rồi sẽ ra
sao én ơi! Nếu người ta cứ vô tình bước qua pháp luật tự do bắt, bán, ăn nhậu én
như thế này?
Mùa thu năm 2000
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI