Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

DỌN LÒNG MÌNH CHO MƠ ƯỚC EM BAY lời bình của LÊ THÀNH VĂN - CHƯ YANG SIN số 332 tháng 4 năm 2020

Sổ tay Thơ:


Mỗi ngày


Mỗi ngày
tôi lặng lẽ ngắm cây trái trong vườn
lắng nghe tiếng nói mịn màng
của lá
gọi nhau vào cuộc chơi
ánh sáng.

đôi khi một tiếng chim trốn tìm
thả nhịp đôi vào ngọn gió
gọi nhau
yêu
cứu rỗi những đôi mắt
đong đưa bản tình ca
rớt giọng.

mỗi ngày
cây đã nói như thế
về hồn vía của đất
trái đã nói như thế
về bầu trời và cánh bay.

còn tôi
em biết không mỗi ngày
tôi đã dọn lòng mình
cho những giấc mơ
của em
chạy nhảy.
                                    TRẦN VĂN HỘI
LỜI BÌNH:
DỌN LÒNG MÌNH CHO MƠ ƯỚC EM BAY

Thế giới sẽ đẹp hơn qua con mắt nhà thơ, tình yêu sẽ hồn nhiên và thánh thiện nhiều lần qua cảm xúc của con tim biết hát. Thơ ca và tình yêu ngàn đời nay đã là bạn đồng hành của nhau, dâng hiến những đóa hoa tinh thần tuyệt mĩ, hòa kết khát khao ngọt ngào và những ước vọng xanh mơ. Bài thơ Mỗi ngày của thi sĩ Trần Văn Hội mang vẻ đẹp nhân bản về đời sống tự nhiên, là cảm xúc “thiền yêu” vẫy gọi từ đáy lòng thẳm sâu vô lượng.
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” (Trịnh Công Sơn). Với nhà thơ Trần Văn Hội, niềm vui là được “lặng ngắm cây trái trong vườn”, thanh thỏa, an yên như một hiền triết. Khổ thơ mở đầu nhờ đó dẫn dụ hồn người đi tìm vẻ đẹp thiên nhiên giữa một vùng ánh sáng tự tình của lá hoa qua tiếng nói “mịn màng”, thuần khiết: “Mỗi ngày/ tôi lặng lẽ ngắm cây trái trong vườn/ lắng nghe tiếng nói mịn màng/ của lá/ gọi nhau vào cuộc chơi/ ánh sáng”.
“Cuộc chơi ánh sáng” là cuộc chơi mang vẻ đẹp diệu kì, vì nó rực rỡ đến siêu thực, loài người khó bề can dự. Tôi xem đây là ý thơ xuất thần mà trời cho nhà thơ trong giây phút tĩnh tâm hòa điệu hồn mình vào cõi tự nhiên. Mỗi giọt ánh sáng buông rơi là mỗi giọt thơ trào ra ngòi bút, hưng phấn, thánh thiện, chan hòa trên mặt giấy. Hình thức khổ thơ mở đầu được tác giả vắt dòng nên mỗi câu chữ đều long lanh, thơm tho như tiếng lá “mịn màng” từ vòm xanh rơi xuống.
Sau cuộc hội ngộ cùng lá trong “cuộc chơi ánh sáng”, nhà thơ lắng lòng mình để bồi hồi nghe “một tiếng chim trốn tìm thả nhịp đôi vào gió”. Ôi chao, cái nhịp đôi yêu mới dễ thương và thơ mộng làm sao. Cõi người yêu đủ chết lòng thi sĩ, cõi yêu của tự nhiên càng lãng mạn và nên thơ hơn rất nhiều. Đôi khi, chính sự hồn hậu, luyến ái và khát khao tìm nhau của lời chim muông kia đã cứu rỗi con người vượt qua nỗi niềm cô đơn, sầu muộn: “và/ đôi khi một tiếng chim trốn tìm/ thả nhịp đôi vào ngọn gió/ gọi nhau/ yêu/ cứu rỗi những đôi mắt/ đong đưa bản tình ca/ rớt giọng”.
Từ cuộc chơi ánh sáng và nhịp đôi trốn tìm của loài chim gọi nhau, nhà thơ đã có một cái nhìn thật yêu ái về sự sinh tồn của tự nhiên, về lẽ sống vĩnh hằng của vũ trụ. Hồn vía của đất đai là tạo ra ánh sáng nơi vòm xanh để ngàn năm ngân nga tiếng nói “mịn màng” của lá. Hồn vía của bầu trời - không gian của muôn loài cánh bay là gọi nhau trong yêu thương và khát khao ái tình hòa nhịp. Cũng như lòng thi nhân đây, mỗi ngày sống trên mặt đất này là luôn “dọn sẵn” lòng mình cho tình yêu thiết tha trở về trú ngụ. Ý thơ của khổ thơ cuối bài thật độc đáo, hay đến không ngờ và đồng thời cũng khép lại một tứ thơ trọn vẹn cho toàn bộ thi phẩm: “còn tôi/ em biết không mỗi ngày/ tôi đã dọn lòng mình/ cho những giấc mơ / của em/ chạy nhảy”.
Bài thơ Mỗi ngày được in trong thi tập Những giấc mơ trôi dạt của nhà thơ Trần Văn Hội, xuất bản năm 2019. Thông điệp nhân bản về cuộc sống tự nhiên, về tình yêu qua giọng thơ hồn hậu, thâm trầm của tác giả đã giúp người đọc có cái nhìn yêu ái và hướng thiện nhiều hơn trong cuộc sống. Đọc một bài thơ hay, tâm hồn mỗi người sẽ trở nên ngọt ngào, sáng trong và nhìn nhận thế giới không chỉ bằng đôi mắt mà bằng cả cảm xúc của con tim thiện lành. Chức năng thơ, chức năng văn nghệ nhờ đó càng to lớn, đẹp đẽ hơn.


Logo Văn học trong nhà trường


Thứ Ba, 28 tháng 4, 2020

TRẬN CUỐI Ở LẠC THIỆN hồi ký của ĐOÀN VIẾT DOÃN - CHƯ YANG SIN số 332 tháng 4 năm 2020







Bấy giờ đơn vị chúng tôi đóng quân ở cánh rừng chân núi Chư Yang Sin thuộc vùng căn cứ Thăng Lễ H9 (Krông Bông). Mọi năm cứ giáp Tết là tổ chức ăn Tết trước. Vừa chiến đấu vừa sản xuất tăng gia, chăn nuôi để giải quyết phần lớn cung cấp hậu cần tại chỗ, vì thế đơn vị năm ấy cũng gói bánh chưng, thịt heo, tổ chức ăn Tết tươi hơn, có cả nhân dân tới dự chung vui, quân dân tình cảm thắm thiết. Ít ngày sau nhận được chỉ thị cấp trên tiếp tục cho anh em ăn Tết đúng ngày Nguyên Đán theo cổ truyền của dân tộc, thế là năm đó chúng tôi có hai lần ăn Tết. Ra Giêng, đơn vị hành quân chiến đấu. Ta có loại H12 vũ khí mới, đầu đạn tìm mục tiêu, uy lực sát thương lớn, nghe nhật lệnh chiến đấu của Bộ chỉ huy Quân giải phóng khích lệ sĩ khí cán bộ, chiến sĩ lạc quan tin tưởng, phấn khởi lắm. Xuân 75 này đi chiến đấu (mãi sau mới biết là chiến dịch), đến cấp ủy, chỉ huy đơn vị cũng chỉ biết nhận nhiệm vụ từng ngày, từng bước theo kế hoạch. Đúng ngày quy định, lực lượng tập kết tại khu rừng Buôn Một – Khuê Ngọc Điền có các đơn vị D401 đặc công, D301 bộ binh, C314 hỏa lực, cơ quan quân sự tỉnh: Tham mưu, chính trị, hậu cần, đội phẫu tiền phương. Đoàn dân công hỏa tuyến huy động nhân dân vùng căn cứ, đảng viên cán bộ và du kích làm nòng cốt. Tất cả trong đội hình bí mật hành quân về hướng nam.
Mùa khô, băng rừng trèo đèo, lội suối vượt sông, mang vác nặng nề gian khổ, cơm vắt muối hầm, liên tục một tuần lễ, lực lượng tới vị trí tập kết cuối cùng. Sáng hôm sau hợp đồng tác chiến trên sa bàn, từng đơn vị hạ quyết tâm, anh nuôi nấu cơm vắt, làm các công tác bảo đảm cho bộ đội sẵn sàng đúng giờ xuất kích.
Đến 2 giờ chiều hôm đó, theo lệnh mới bỏ mục tiêu đánh quận lỵ Đức Xuyên, toàn lực lượng hành quân khẩn cấp làm nhiệm vụ theo phương án hai.
Trên đường đi, chúng tôi đã nghe bom đạn nổ ầm ầm hướng Buôn Ma Thuột, máy bay trực thăng, phản lực, L19… gầm ré điên loạn ào ào không ngớt. Ban đêm đèn dù, pháo sáng rừng rực vùng trời thị xã. Qua radiô nghe đài Tiếng nói Việt Nam thông báo chiến thắng dồn dập. Điện trên báo cho biết quân ta đánh địch ở núi Lửa Đức Lập, làm chủ Thuần Mẫn, cắt đường 14, chốt đồi Chư Ty, tấn công Buôn Ma Thuột… Chúng tôi háo hức phấn khởi hăng hái bước quân hành.
Ngót một tuần lễ hành quân, lực lượng tới mục tiêu, sáp vào chiến đấu phối hợp cùng mặt trận. Đêm 17.3.1975, toàn lực lượng đánh vào quận Lạc Thiện (Lăk), Đến giờ “G”, C308 (D401) sử dụng một mũi xung lực dùng thủ pháo, AK, B41 diệt tan bọn địch chốt tiền tiêu trên cao điểm đồi Hiến Binh phía đông sát quận. D301 đột nhập vào đánh địch ở ấp Liên Sơn, C314 sử dụng hỏa lực cối 82 ly đi cùng tiểu đoàn bộ binh, DKZ75 nã vào quận lỵ, khống chế hỏa lực địch chi viện đắc lực trận đánh. Súng 12,7 ly chốt bắn máy bay bảo vệ trận địa, cần thiết hạ nòng quét bộ binh địch khi có lệnh. Các đơn vị tác chiến hiệp đồng phát triển tốt, pháo nổ rền, súng bộ binh ran ran, hừng hực thế tấn công. Đại bác 105 ly của địch trong quận lỵ phản ứng thi thoảng gầm lên ít loạt đạn rít xoèn xoẹt nổ oành oành ở cánh rừng phía sau đội hình quân ta.
Sáng 18.3, bộ đội ta khép vòng vây quận lỵ, lúc 8 giờ, bọn địch đông đen từ phía đồi đá qua Lắc Yang Tao thọc về quận hòng giải vây, chúng bị súng đạn hỏa lực quân ta quật cho tơi bời, xác ngổn ngang trên đoạn đường tới ấp Liên Sơn. Bọn sống sót tán loạn chạy thục mạng. Quân ta thừa thắng xốc tới. Địch trong quận lác đác nhảy xuống xuồng bơi ra đảo vượt qua hồ hòng chạy về cánh rừng phía tây. Có một số xuồng dính đạn pháo chìm nghỉm.
Đến 3 giờ chiều, địch chịu không thấu phải kéo cờ trắng đầu hàng. Bộ đội ta ào ào xông vào, Nguyễn Đức Thành tiểu đội trưởng, C2 (D301) cắm cờ Giải phóng tung bay phấp phới tại trung tâm quận lỵ, quân ta làm chủ hoàn toàn. Ngụy quân, ngụy quyền lố nhố nạp súng, tuân lệnh Quân giải phóng. Hai khẩu 105 ly ghếch đầu súng, bầu nòng chứa quả đạn vàng chóe, đen sì xù xù như voi phục tại hầm pháo. Bộ đội ta lên xe GMC chiến lợi phẩm, trương cờ Giải phóng, sử dụng lính ngụy lái đến các buôn lân cận, nghĩa quân – dân vệ buộc giẻ trắng lên đầu súng lũ lượt đem nạp cho Quân giải phóng.
Ngày 19.3, quân ta phát triển tảo trừ truy quét địch, khắp vùng súng vẫn còn nổ bẹp xẹp chưa im hẳn.
Tại Chỉ huy sở, đơn vị chúng tôi chốt bên con suối nhỏ ở cánh rừng phía đông cách quận độ 1 km, lúc trưa, Trình, Phúc, Nhàn trinh sát phát hiện có địch thọc vô. Anh em mình lập tức xách súng rượt. Tiếng hô: Đứng lại! Đứng lại! Vang vọng núi rừng, AK nổ giòn. Chừng 15 phút sau lính ta lôi về một chiếc ba lô ngụy, báo cáo là tên đó bị trúng đạn ở bìa rừng. Trong ba lô có một quả đu đủ xanh, một sổ tử vi, một lá thư hắn viết gửi cho vợ có đoạn viết : “Em hãy gửi gấp cho anh hai mươi ngàn đồng để xin thượng cấp ở lại hậu cứ khỏi phải hành quân”. Tên lính này (tôi quên tên) cấp bậc binh nhất, y tá quê ở Tam Quan – Bình Định. Tôi phán đoán bọn này hoảng loạn, chưa dám mò đi, chắc còn quanh quẩn ẩn nấp đâu đây. Tôi cho anh em đi hai mũi theo hình chữ V, dõi dấu chúng chạy lướt cỏ tranh khô truy lùng. Đi với tôi là Trình lăm lăm cây AK chĩa nòng phía trước sẵn sàng. Bên lùm le trụi lá, dưới lòng con suối cạn cách chúng tôi khoảng 10 mét, bỗng tên ngụy vụt đứng lên như trời trồng, bù xù chiếc áo khoác ngoài, 2 tay giơ cao, run như cầy sấy, mặt tái mét, miệng lập cập: “Xin hàng đồng chí! Xin hàng đồng chí!…” Tôi buồn cười trước sự cầu khẩn van lơn với cách phát ngôn của hắn. Có lẽ bọn chúng có biết quân ta xưng hô với nhau là đồng chí, vì thế đến lúc khốn quẫn sa vào Quân giải phóng mới kêu van như vậy.
Tôi tiến hành ngay việc điều tra khai thác, tên tù binh ngoan ngoãn vanh vách đáp lời.
- Súng đâu?
- Dạ thưa thượng cấp, hoảng quá tôi vất đi rồi. (Vì hắn thấy tôi đeo K54)
- Ở đâu chạy về đây?
- Dạ, ở sân bay Hòa Bình.
- Có bao nhiêu đứa?
- Dạ, có 12 đứa.
- Có biết tên chúng nó không?
- Dạ, không. Chúng nó ở các đơn vị chạy theo tôi.
- Chúng nó có biết tên mày không?
- Dạ, có.
- Vì sao?
- Dạ, tôi là đại úy ạ.
Rút trong túi áo lấy ra thẻ căn cước quân nhân, khép nép hai tay, hắn đưa cho tôi. Thẻ căn cước quân nhân của hắn ghi: “Họ tên Đào Tiến Viện, sinh năm 1940, đại úy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 53, nguyên quán Yên Dũng – Bắc Giang”.
Tôi lướt đọc thẻ căn cước vừa nhìn hắn. Dường như linh cảm được điều nghi vấn của tôi về sự thăng tiến của hắn, Viện phân bua: Dạ, sau lần bị thương ở Tân Cảnh, Đắk Tô, Kon Tum tôi không còn sức chiến đấu nên họ đưa về làm ở Phòng nhì trung đoàn. Vừa nói, Viện vừa vén áo để phơi cái bụng trắng hếu có một vết sẹo bên mạng sườn dài cỡ nửa gang tay, có ý minh chứng lời khai sự thật. Tôi đanh giọng: “Mày khoe có chiến tích với quân lực Việt Nam cộng hòa hả”. Vội thả vạt áo, Viện len lén: “Không ạ!”.
- Định chạy đi đâu? - Tôi hất hàm hỏi.
Viện đáp: Về Đà Lạt, gia đình, vợ con ở bên ấy ạ.
Chúng tôi cho ăn cơm uống nước, hắn ngồi nhai nghiến ngấu, nốc nước ừng ực ngon lành. Sau đó, lính ta dẫn Viện đi gọi những tên còn lại. Hắn gào oang oang đến khản cổ: “Ơi anh em! Tôi là Đại úy Đào Tiến Viện đây, được Quân giải phóng cho ăn uống, đối xử tử tế, anh em hãy ra với Quân giải phóng”. Qua một thôi một hồi đi vòng quanh, gọi riết vẫn bặt vô âm tín. Tôi gọi điện báo về sở chỉ huy mặt trận, rồi bàn giao cho cán bộ binh vận tiền phương dẫn tên đại úy về nơi tập trung tù hàng binh.
Hai ngày sau, chúng tôi tóm được một tên trung sĩ, quê Quảng Bình; một tên binh nhất, dân tộc Stiêng quê tỉnh Sóc Trăng; cả 2 tên trong toán đi với Viện.
Bộ đội ta truy quét bắt được tên thiếu tá Y Djú Êban - Quận trưởng, quê  buôn Lăk Yang Tao, Lăk. Nguyễn Văn Thường, quê Hải Dương, Quận phó hành chính ra trình diện Ban quân quản. Huyện  Lạc Thiện  giải phóng, đi đâu cũng thấy vũ khí địch vứt vãi, tàn quân nhan nhản phờ phạc. Có tên còn kéo vợ ôm con dại lếch thếch đói khát đùm túm tiều tụy thảm hại. Bọn họ được bộ đội ta chỉ đường tới gặp Ủy ban quân quản cấp giấy cho về đoàn tụ với gia đình.
8 giờ sáng ngày 21.3, đoàn xe của cánh quân chủ lực giương cờ đỏ sao vàng đi từ đồi đá phía bắc tiến về quận Lạc Thiện gặp bộ đội tỉnh Đắk Lắk trong niềm vui chiến thắng.
Sáng ngày 22.3, bộ đội và thanh niên Liên Sơn tổ chức đấu bóng chuyền. Cũng tại đây, buổi chiều diễn ra cuộc mít tinh lớn của quân và dân ta, có cả những người trước đây cầm súng làm việc cho chế độ Mỹ ngụy. Trong không khí náo nức tưng bừng, tràn ngập rừng cờ và biển người phơi phới mừng quê hương giải phóng, chính quyền thực sự về tay nhân dân. Ngày hội ghi dấu ấn lịch sử kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ của quân dân ta ở một huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk thân yêu, hòa chung niềm vui Xuân 1975 đại thắng, nước non khải hoàn.

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2020

NÓI THAY CHO NGƯỜI ĐÃ CHẾT truyện ngắn của NGUYỄN VĂN THIỆN - CHƯ YANG SIN SỐ 332 tháng 4 năm 2020

 


Có những đêm dài, bị truy sát bởi ác mộng, tôi không dám ngủ, chỉ nằm thôi. Tôi nằm sấp, há mồm ra để thở. Từ trong mồm rắn rết bò ra, cóc nhái bò ra, bọ rệp cũng bò ra, cả bầy, cả lũ, như chạy giặc, như di cư, như vượt biên, như tang lễ... Tôi hỏi: "Tụi bây đi đâu mà đông vui như thể biểu tình bãi khóa?". Rắn rết cóc nhái trả lời: "Chúng tôi nói thay cho những người đã chết!". Bực chưa? Hỏi một đường chúng trả lời một nẻo. Không lẽ đuổi theo mà giết từng con? Thôi thì kệ bọn nó. Để xem chúng kéo đi đâu giữa những đêm dài nóng nực...
Tôi nói: "Tao không gọi mày là mày, tất cả chúng ta là anh em...". Bọn chúng nghe thế, cười khành khạch. Con rết bận áo giáp đi sau cùng quay đầu lại nói: "Liệu hồn! Nằm im đấy, đừng lải nhải!". Ghê, chúng dám dọa tôi ư! Còn lâu tôi mới sợ, nhưng vẫn nằm im. Có thật là chúng nó nói thay cho những người đã chết không nhỉ? Phải chờ thôi. Trăng khuya đã lên rồi, vằng vặc như trong thơ và trong nhạc. Bầy rắn rết cóc nhái từ miệng tôi bò ra, xếp hàng rồng rắn giữa sân. Trời vẫn nóng hầm hập. Tôi vẫn không dám ngủ. Nằm sấp, im lặng xem chúng chơi đùa...
Đêm dài lắm, nhất là những đêm trời nóng nực. Nếu không ngủ được, đêm càng dài. Tôi nghĩ, những người đã chết, họ còn gì để nói nữa không nhỉ? Tại sao bầy động vật này lại sinh ra để nói thay người đã chết? Mà người đã chết thì nhiều vô kể, chết trên đường đi, chết bên sông, chết trên biển, chết trên máy bay, chết trong đêm , chết giữa trưa, chết sáng sớm, chết vì xe cán, chết vì treo cổ, chết vì súng bắn lê đâm, chết vì sặc nước, chết vì bị hiếp dâm... làm sao chúng nói thay cho xuể?
Con rắn màu xanh da trời rít lên: "Chúng ta là những kẻ không cần tài sản!". Cả bọn rít lên theo, như tiếng gió thổi bên vách núi: "Không cần tài sản!". Nói rồi, rắn điềm nhiên bò lên cây lộc vừng nằm, thò đầu xuống, lắc lư như đầu thằng say rượu. Con rết mặc áo giáp sắt bò ra, hét toáng: "Ta sống đây là vì người khác, không phải cho riêng mình ta!". Cả bọn lại hét lên phụ họa: "Không phải riêng mình!". À, hóa ra chúng chơi trò con nít, tưởng gì! Chúng nói phét thế thôi. Chuyện này, tôi biết rồi. Chú nhái bén phùng mang trợn má hét: "Tao ghét những đứa gian lận!". Cả bọn hét theo: "Đả đảo gian lận!".
Tôi có một ông bác, chết từ thời tám hoảnh. Cha thường kể: "Bác mày trước khi chết đòi vợ một bát cơm nếp, nhưng không có!". Tôi nghĩ, những người chết, nếu có thể gửi tiếng nói lại cho hậu thế, chắc họ không nói những chuyện tầm thường đâu. Ví dụ, như bác tôi, nếu có gửi lời lại, thì cũng sẽ nói rằng, cố mà xây dựng cuộc sống làm sao cho yên vui. Chứ không lẽ lại nói, cho tao bát cơm nếp! Bọn rắn rết vẫn mải mê chơi giữa sân. Trăng vẫn sáng. Trời vẫn nóng.  Không ngủ được, cảm giác cực kỳ khó chịu. Tôi hét lên như có ai móc họng: "Cho tao bát cơm nếp!". Bọn rắn rết cóc nhái giật mình dừng cả lại. Chúng ngớ ra một lúc rồi cười sằng sặc. "Người chết không xin cơm, đồ ngu, người chết nói điều đẹp đẽ hơn nhiều, mày im mồm lại, để chúng tao nói thay cho!".
Tôi vừa phát hiện ra mình có một khả năng siêu phàm: Hễ tôi nghĩ đến cái gì, lập tức cái đó xuất hiện! Tôi vừa nghĩ đến Phật, lập tức Phật hiện ra, đương nhiên là râu cước bạc phơ, đương nhiên là vẻ mặt nhân hậu. Phật ngồi xuống, bọn rắn rết bò lượn quanh. Trên tay Phật cầm một tô cơm nếp. Hoá ra Phật nghe được ước mơ của tôi, không phải, ước mơ của bác tôi. Thế mới gọi là Phật chứ...
Phật cười, hỏi bọn rắn rết: "Ai bảo tụi bay nói thay người đã chết?". Lũ nó trả lời: "Chúng tôi tự nguyện". Phật lại hỏi: "Nói mãi thế, có đói, có mệt không?". "Có". Rồi không đợi Phật nói gì thêm, rắn rết cóc nhái bu vào bát cơm nếp bốc ăn ngon lành. Tôi thất vọng, bác tôi cũng thất vọng, chính tôi nói dùm bác tôi, xin một bát cơm nếp, sao bọn kia lại được ăn? Phật nheo nheo mắt giễu tôi, nói như gió thoảng: "Mày ngốc quá, thời này là thời nào mà cứ đòi công bằng, trung thực!". Tôi hiểu rồi, Phật cũng là kẻ cùng phường với rắn rết...
Gần về sáng, trời mát, tôi ngủ thiếp đi, trong khi lũ rắn rết cóc nhái vẫn múa hát vòng quanh và tranh nhau nói thay người đã chết. Trong mơ, tôi thấy những người chết sắp hàng đứng nhìn lặng lẽ bằng đôi mắt ngùn ngụt lửa cháy. Họ không nói gì đẹp đẽ, không nói gì tầm thường. Họ cũng không xin cơm nếp và họ không tranh nhau ăn cơm nếp.
Những người đã chết, họ không nói gì. Bọn rắn rết cóc nhái tranh nhau ăn và tranh nhau nói.
Chúng nói chán và ăn no rồi nằm ngủ dưới trăng. Phật, sau một hồi nói nói cười cười bạc phơ nhân hậu, chỉ còn đứng trơ lại một mình. Tôi nói trong giấc ngủ ấm ức: “Thôi, Phật đi đi!”. Phật quay lưng đi, phe phẩy cái đuôi dài y như đuôi cáo. Trời ạ, hóa ra là tôi nhầm, đó là một con cáo trên núi Chư Mang xuống chơi giữa đêm nắng nóng. Không phải Phật, hèn gì!
Những người đã chết cũng lặng lẽ bỏ đi, những đôi mắt vẫn ngùn ngụt như lửa cháy.

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

TỪ TRẬN MỞ ĐẦU CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN ĐẾN MỞ CÁNH CỬA ĐỒNG DÙ KẾT THÚC CHIẾN TRANH bút ký của NGUYỄN LIÊN - CHƯ YANG SIN SỐ 332 tháng 4 năm 2020




Đến nay cán bộ nhân dân các dân tộc huyện Ea H’Leo còn khắc ghi những cái tên đơn vị, tên người chỉ huy gắn liền với chiến công của vùng đất mà mình đang sinh sống. Trung đoàn 48 do Trung đoàn trưởng Lê Quang Bình và Chính ủy Đinh Hữu Tấn chỉ huy thuộc Sư đoàn 320 chủ lực đã đánh trận điểm huyệt Chi khu quân sự Thuần Mẫn ngày 8.3.1975 mở màn chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; cũng tại đây, thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đại tướng Văn Tiến Dũng đọc quyết định thành lập Binh đoàn Tây Nguyên.
Trận đánh Cẩm Ga, Chi khu quân sự Thuần Mẫn, Trung đoàn 48 đã hoàn thành nhiệm vụ cắt đứt đường viện trợ của Quân đoàn 2 địch từ Pleiku theo Quốc lộ 14, và theo đường số 7B từ hướng Cheo Reo để các đơn vị bạn tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột. Thất thủ Tây Nguyên - nơi được coi là vùng chiến thuật, địch hy vọng kiểm soát toàn Đông Dương - Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 và Vùng Hai chiến thuật đã lên trực thăng chuồn thẳng về Nha Trang, giao lại Quân đoàn cho Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phó tư lệnh lên kế hoạch rút quân, các tỉnh trưởng, cán binh cấp dưới ai biết thì chạy, mạnh ai nấy chạy như ong vỡ tổ. Như một thứ bệnh dịch lây lan từ binh lính sang người dân chen nhau chạy di tản. Bộ Tư lệnh Mặt trận vừa triển khai kế hoạch tiêu diệt Sư đoàn 23 địch hướng đường 21 Buôn Ma Thuột đi Nha Trang, vừa lên kế hoạch chặn đánh địch rút chạy trên đường số 7. Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64, Sư đoàn 320 cơ động ngay trong đêm 16 tháng 3 để có mặt tại nam thị xã Cheo Reo vào sáng hôm sau (17.3) theo kế hoạch nổ súng chặn địch. Biết đây là thời cơ nên cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 9 đốt đuốc vận động xuyên rừng, vượt đèo dốc chạy đua với địch. Sau Tiểu đoàn 9 là toàn bộ Trung đoàn 64, tiếp theo là Trung đoàn 48 và tất cả các đơn vị còn lại của Sư đoàn 320 vào cuộc truy kích địch. Vừa trải qua những năm tháng thiếu thốn, gian khổ của Tây Nguyên, thiếu quân trang bổ sung, bộ đội truy kích địch bằng chân đất, te tua quần áo, chân tứa máu, vẫn chạy truy đuổi địch đến chiều 17 tháng 3 thì đến được Cheo Reo. Nhưng buổi sáng, một số xe địch đã chạy lọt về phía Củng Sơn, hầu hết Quân đoàn 2 nguỵ với hàng nghìn xe pháo các loại còn ùn tắc tại thị xã Cheo Reo. Trên đường số 7, lúc đó xe địch, xe dân chen nhau chạy hàng bốn, hàng năm như cố thoát khỏi cửa tử thần. Qua thị xã khoảng 4 cây số, một trận địa phục kích của Tiểu đoàn 9 nổ súng chặn đứng đoàn xe. Đang cơn hoảng loạn, nghe tiếng súng của ta, cả đoàn xe địch chạy bừa ra hai bên đường, lao vào rừng. Nhiều tên giặc lái bỏ xe chạy bộ về Cheo Reo. Thị xã Cheo Reo trở thành điểm tập kết trung chuyển của địch. Đâu đâu cũng chật ních xe các loại, hàng vạn lính địch dựng lều bạt nằm ngổn ngang khắp vườn rẫy, tràn cả ra sân bóng. Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 nhanh chóng chiếm thị xã Cheo Reo. Trưa 18.3 Trung đoàn 48 có sự chi viện của pháo binh mở đợt tấn công vào sân bay, khu cố vấn Mỹ và khu tòa hành chính… Cầu Ea Nu bắc qua sông Ba, xe tăng địch chen nhau chạy bị sập do quá tải. Bãi sông Ba trở thành bãi xác xe. Tướng Phạm Văn Phú từ Nha Trang điện lệnh cho chỉ huy cấp dưới phá xe mở đường máu mà chạy về Củng Sơn. Trước tổn thất quá nặng nề, những tên chỉ huy còn lại của địch cũng lên máy bay tìm đường thoát thân, để lại quân lính như rắn mất đầu chạy loạn xạ. Dọc sông Ba không những trở thành bãi xác xe, xác pháo mà còn là bãi xác người do chen lấn giẫm đạp lên nhau. Số còn lại tìm vào các hang núi, bờ bụi ven sông trú ngụ. Chính uỷ Trung đoàn 48 Đinh Hữu Tấn ngồi trên chiếc xe Jeep vừa thu của địch, thấy cảnh nhốn nháo ông nói lái xe dừng lại. Một người phụ nữ đau bụng quằn quại. Ông gọi y tá giúp người phụ nữ khả năng sinh con. Anh y tá nói: “Báo cáo thủ trưởng, tôi chưa làm việc này bao giờ!”. “Thì bây giờ làm đi. Giúp dân cũng là nhiệm vụ!”. Ca đỡ đẻ thành công, Chính uỷ nói cậu công vụ Phạm Vũ Cần pha sữa nóng cho người sản phụ uống. Những người dân lúc đầu sợ bộ đội Việt cộng, bây giờ chảy nước mắt vì nghĩa cử của bộ đội. Người đàn ông mặc bộ đồ lính ngụy đứng trong đám đông liền cởi chiếc áo rằn ri, quấn cho đứa bé sơ sinh, anh ta xúc động: “Các ông Việt cộng đúng là Phật sống. Vậy mà lâu nay nghe tuyên truyền chúng tôi đã hiểu sai!”. Tới một đoạn khác có một bà cụ già chừng hơn tám mươi tuổi ngồi trong đám đông đói lả, Chính uỷ lại nói cậu chiến sĩ pha cho cụ sữa nóng, lệnh cho bộ đội khuân những bao gạo trên xe xuống giúp dân, khuyên họ trở về nhà làm ăn sinh sống, bộ đội cách mạng cũng là dân, không phải sợ. Vừa uống sữa vừa chảy nước mắt biết ơn, bà cụ nói trong hang còn nhiều người lắm. Trong con mắt người dân lâu nay sống dưới chế độ cũ, nghe tuyên truyền về Cộng sản, về Việt cộng tuốt móng tay, moi gan ăn thịt người, ba anh lính Việt cộng bám cành đu đủ không gãy, bây giờ được nhìn thấy những chàng trai khoẻ mạnh đẹp trai, hành động đầy tính nhân văn của bộ đội cách mạng, họ vô cùng biết ơn và những giọt nước mắt vừa vui mừng vừa như tạ lỗi về những điều họ đã nghĩ sai về bộ đội cách mạng. 
Ngày 26 tháng 3 năm 1975 tại căn cứ chỉ huy chiến dịch trong rừng xã Ea Tir, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam đã thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đọc quyết định thành lập Binh đoàn Tây Nguyên, Trung đoàn 48 cùng Sư đoàn 320 tiếp tục hành quân theo chiến dịch Hồ Chí Minh, thần tốc tiến về Sài Gòn. Cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 48 được cấp trên giao mở cánh cửa sắt Đồng Dù nằm phía tây bắc Sài Gòn. Đồng Dù là một căn cứ lớn nằm cạnh lộ 8 Củ Chi đi Bình Dương cách Sài Gòn chừng ba mươi cây số. Căn cứ này trước đây trong “Chiến tranh cục bộ” là hậu cứ của Sư đoàn 25 Mỹ - sư đoàn “Tia chớp nhiệt đới”. Khi “Việt Nam hoá chiến tranh”, Mỹ giao lại Đồng Dù cho Sư đoàn 25 nguỵ. Căn cứ rộng khoảng 7 cây số vuông nằm giữa cánh đồng như con mắt cú vọ gườm gườm nhìn về  Trảng Bàng, nhìn lên Hố Bò, Nhuận Đức - những căn cứ du kích nổi tiếng của Tây Ninh, Củ Chi, và của vùng ven.
Căn cứ được rào kín bằng 11 lớp dây thép gai vòng ngoài 300 mét, phía trong là một hệ thống công sự phòng thủ, cứ 50 mét lại có một lô cốt, 10 mét lại có một hố bắn cá nhân. Trong căn cứ có cả sân bay, trận địa pháo lớn tới 15 khẩu, một thiết đoàn khoảng 20 xe thiết giáp, một trường huấn luyện hạ sĩ quan. Quân số địch đóng trong căn cứ lúc ấy có chừng 3.500 tên do Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn 25 chỉ huy.
Theo hồi ký của Chính ủy Đinh Hữu Tấn, tôi hiểu hơn về vị trí người chỉ huy lúc ấy: “Đồng Dù là một miếng “mồi” không dễ nuốt tí nào cả đối với chúng tôi là những người lính hết sức bỡ ngỡ, lại chân ướt chân ráo mới từ cao nguyên tới. Trước khi nhận lệnh đánh Đồng Dù, Trung đoàn tôi từng tham gia chiến dịch Tây Nguyên, tiến đánh đồn Cư Sê trên đường 14, tấn công quận lỵ Thuần Mẫn, Cheo Reo, trận truy kích địch bỏ chạy trên đường số 7 có một không hai trong lịch sử chiến tranh… góp phần cho trận đánh giải phóng Buôn Ma Thuột, mở đầu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Nếu trận đánh Buôn Ma Thuột là một vết tử thương cho chế độ Thiệu, một đột phá khẩu để dân tộc ta đi vào vòm cửa khải hoàn, thì đường số 7, tôi muốn ví von như kiểu thầy thuốc, là nơi nguỵ mất nhiều máu nhất để đến nỗi cái cơ thể Việt Nam Cộng Hoà đang bề ngoài phì nộn ấy bị choáng cấp, thực sự đổ ụp xuống để rồi ngày 30 tháng 4 năm 1975 nó thở hắt ra giãy đành đạch.
Giờ đây chúng tôi nhận lệnh đánh Đồng Dù, mở cánh cửa sắt phía tây bắc Sài Gòn cho quân ta tràn vào dứt điểm cuộc chiến tranh trường kỳ của dân tộc. Trong lúc chờ đơn vị bạn qua cầu trước, tôi tranh thủ kéo cậu Niên công vụ xuống sống tắm. Vì muốn tẩy sạch bụi đường cũng có, mà vì để thỏa tính lãng mạn của mình cũng có. Từ đây chúng tôi đã nhìn thấy quầng sáng của thành phố Sài Gòn hắt lên nền trời đêm một thứ ánh sáng nhờ nhờ mông lung và lạ lẫm quá, tôi cứ thấy chộn rộn trong lòng.
Đêm 24 tháng 4 Trung đoàn vượt sông Sài Gòn về tập kết ở Phú Mỹ Hưng thuộc huyện Củ Chi. Pháo ở Trảng Bàng, Tân Trung Hòa, Đồng Dù có thể bắn về đây, nơi có những đơn vị chủ lực của ta tập kết chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng. Cán bộ đi trinh sát, chiến sĩ gói bộc phá, người lo làm đường kéo pháo, tất cả chuẩn bị hết sức khẩn trương, nhộn nhịp như đêm giao thừa vậy. Tôi chưa sống ở Vĩnh Linh, mới dừng chân ở địa đạo Củ Chi, tôi đã cảm thụ được chất anh hùng ca của lời hát: “Mẹ vẫn đào hầm”. Lúc này những người mẹ bằng xương bằng thịt chứ không phải hình ảnh trong ca từ bài hát, các mẹ thương những người lính từ rừng Tây Nguyên gian khổ biết chừng nào:
- Út ơi. Bổ dưa mời chú Hai ăn con!
Chúng tôi, cả Sư đoàn, mười mấy sư đoàn mang tinh thần cho trận đánh cuối cùng này làm thế nào để thỏa lòng mong ước của người dân trong lòng địch đang mong đợi. Chờ đợi là vậy nhưng cái mục tiêu mà Trung đoàn tôi đảm nhận phải mở bằng được cánh cửa sắt Đồng Dù cho đại quân ta tiến về giải phóng Sài Gòn. Ông già Năm ở Phú Mỹ Hưng khuyên tôi bằng chất giọng đặc Nam bộ:
- Qua khuyên thằng Hai, có phải bọn bay định đánh Sân Dù, hổng ăn đâu. Đánh vào đấy bỏ lại con nghen!
- Chúng con còn giải phóng cả Sài Gòn ấy chứ ba.
- Hầy! Sài Gòn toàn lính kiểng. Chúng bay đánh được Sân Dù thì Sài Gòn không đánh khắc tan. Sức mấy nó giữ được.
Đảng ủy và cán bộ chỉ huy Sư đoàn tôi đã được nghe quân báo, cán bộ địa phương, cùng một thượng sĩ nội tuyến trong căn cứ Đồng Dù về bố phòng trong căn cứ của địch. Cần phải làm tốt công tác chuẩn bị. Quân đoàn trưởng Vũ Lăng ra lệnh cho chúng tôi tổ chức một đợt kiểm pháo. Nếu tính tất cả trận địa pháo của địch trong vùng có đến 80 đầu khẩu. Phải hết sức thận trọng không được xảy ra sơ sót.
Chiều 28.4, Sư đoàn chúng tôi làm lễ xuất quân bên bờ sông Sài Gòn đúng lúc nước lên, đôi bờ sông mênh mông. Máy quay phim của các phóng viên chiến sĩ  bám theo đơn vị bắt đầu xè xè quay. Lá cờ Quyết thắng được giao cho Tiểu đoàn chủ công, chiến sĩ Phạm Văn Lệ được vinh dự vác cờ. Suốt cuộc đời chiến sĩ của tôi, trên 20 năm đi đánh giặc, chưa bao giờ thấy người lính ra trận khuôn mặt lại trang nghiêm và rạng rỡ như lần này.
20 giờ địch bắn pháo. Có ai đó nói: “Người lính chỉ chết một lần. Người chỉ huy phải chết nhiều lần”. Chỉ một quả phảo 105 mm rơi trúng đội hình có khi mất đứt cả đại đội như chơi. Cách cứ điểm chừng một cây số, tôi nhận được điện báo của sư đoàn, phải khẩn trương vào chiếm lĩnh vị trí chiến đấu, có thể địch bỏ chạy.
2 giờ sáng ngày 29.4, trời đêm mông lung, chúng tôi tới chỉ huy sở, nói chỉ huy sở cho oai, thực ra chỉ là một bờ ruộng hoang, các chiến sĩ công binh đào sâu một cái hầm cho chỉ huy. 3 giờ 30 phút thông tin hoàn thành mạng hữu tuyến, chúng tôi thay nhau trực và đi kiểm tra bộ đội sẵn sàng mở cửa.
5 giờ sáng, phía đông trời đã ửng hồng, pháo ta bắn. Đến 30 phút đầu, căn cứ của địch chết lặng, không một tiếng súng bắn trả. Tôi băn khoăn nói với Trung đoàn trưởng Lê Quang Bình: “Hay nó chạy?”. Bình chưa kịp trả lời thì con “nhím” Đồng Dù xòe hết lông, xe tăng chạy hỗn loạn, 4 cái xông ra bịt cửa. Tất cả các lô cốt, các ụ súng cá nhân thay nhau nhả đạn, tôi không còn phân biệt nổi những tiếng nổ gì nữa. Một trận đọ súng núi lở long trời, y như có trận động đất. Đạn bay ra phía chúng tôi như bầy ong sắt nổ tung tóe ngay trước mặt, sau lưng, đất đá bay rào rào. Ta bắn pháo đến 7 giờ thì bộ binh tràn lên mở cửa. Hướng C3 mở của rất gọn nhưng vẫn chưa lên được. Hai chiếc xe tăng địch nép hẳn vào bờ tường đất, đổ như vãi đạn 12,8 ly vào cửa mở mỗi lần xung kích nhô lên. Hướng thứ yếu do trung đoàn bạn đảm nhiệm cũng chưa lên nổi. Trong căn cứ, Lý Tòng Bá điều thêm một tiểu đoàn bảo an ở Hiệp Phước đánh thúc sau lưng trung đoàn bạn. Qua chiếc bộ đàm PRC 25 giọng Lý Tòng Bá điều quân túi bụi:
- Các chiến hữu cứ yên tâm, mấy thằng Bắc kỳ bụng toàn rau muống, để rồi xem nó làm được gì. Tôi đã xin được sự yểm trợ tối đa của không quân rồi.
Sau đó 5 phút, quả thật có tiếng gầm rú của máy bay, hai chiếc phản lực F5 bay tới lấc láo ném 4 quả bom cách chỗ chúng tôi chừng hai trăm mét. Pháo cao xạ của ta kịp thời lên tiếng, hai chiếc phản lực hình như không ưa cái chuyện nhảy vào khu “hỏa diệm sơn”, chúng dướn mình lên cao rồi tuốt thẳng về Tân Sơn Nhất. Chỉ còn một lớp cánh cửa cuối cùng vẫn chưa mở được, nòng súng đại liên của địch bên kia bờ đất sẵn sàng trút đạn, tôi hình dung cả đội hình chủ lực của quân đoàn đang chờ đơn vị mở được cánh cửa sắt này. Chúng tôi ra lệnh điều thêm pháo, xe tăng vào tăng cường cho mũi đột kích chủ yếu. Trung đội trưởng Vũ Thanh Sơn (sau này được tuyên dương anh hùng) nằm ép mình xuống bờ đất bò lên cửa mở. Dọc đường tới cửa mở có gần 30 chiến sĩ hy sinh nằm đó. Anh nhặt lấy khẩu B41 của một đồng chí xạ thủ vừa trúng đạn 12,8 của địch. Bất ngờ, Sơn bật đứng dậy trước cửa mở, chĩa khẩu B41 vào sườn chiếc xe tăng đang ép mình bên bờ đất. Chiếc xe tăng địch bốc cháy như đúc bằng nhựa thông. Những chiếc còn lại hoảng loạn vội vàng biến vào phía trong mất hút. Chúng tôi thường nói vui, đấy là quả phạt đền 11 mét; sau cú sút đó, trọng tài nổi hiệu còi chấm dứt trận đấu.”
*
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 29.4.1975, các chiến sĩ Tiểu đoàn Đống Đa giật lá cờ vàng sọc đỏ xuống đất, trịnh trọng treo lá cờ đỏ sao vàng lên. Cánh cửa sắt phía tây bắc Sài Gòn được mở. Tôi ra lệnh tìm bằng được tên Lý Tòng Bá, nhưng hắn đã lẩn trốn mất. Buổi chiều, du kích Củ Chi dẫn tới một người mặc thường phục đang đợi xe đò chạy về Sài Gòn, nói hắn là chỉ huy căn cứ này. Ngồi trước Chính ủy Đinh Hữu Tấn, hắn khúm núm trả lời:
- Tôi là người dân đi làm thầu xây dựng.
- Chính hắn là Lý Tòng Bá đấy - Du kích Củ Chi khẳng định.
- Tôi cứ hình dung ông phải là một người bản lĩnh như cuốn sách ông từng viết “Từ Điện Biên Phủ đến Plei Ku”, không ngờ trong lúc hoạn nạn ông lại bỏ mặc lính, cố chạy trốn giữ bản thân. Tôi nghi ông không phải là Lý Tòng Bá.
Nghe Chính ủy Đinh Hữu Tấn nói, người mập ụ ngồi đối diện thầm nghĩ thì ra mình cũng được phía bên kia biết tới, lại còn đọc cả sách của mình; ông ta vội vàng khẳng định:
- Chính tôi là Lý Tòng Bá đây.
Sợ ông chỉ huy Việt cộng không tin, ông ta còn mở túi áo lấy ra tờ căn cước đưa ra để chứng minh.
Đại quân ta nhanh chóng tiến về giải phóng Sài Gòn. Chỉ có điều, sau chiến thắng, người ta thấy Chính ủy Đinh Hữu Tấn khóc đỏ mắt. Để mở được cánh cửa sắt này phải đổi bằng máu của cán bộ chiến sĩ quá lớn, trận đánh chỉ diễn ra mấy tiếng đồng hồ, sự mất mát hy sinh của bộ đội ta bằng cả một chiến dịch giải phóng Tây Nguyên.