Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

TIN VĂN NGHỆ


Vườn hoa Đà Lạt

* Sáng ngày 31 tháng 7, tại Văn phòng Hội Văn Nghệ Đắk Lắk, Ban chấp hành Chi hội Văn học đã họp xét tài trợ năm 2013 cho các hội viên đã hoàn thành bản thảo nộp về Chi hội. Ban chấp hành nhất trí đề nghị Hội  HỖ TRỢ SÁNG TẠO VĂN HỌC NGHỆ THUẬT NĂM 2013  cho các tác giả có tên sau:



1/ Nhà thơ Văn Thảnh  - thiểu thuyết DU CƯ (300 trang)
2/ Nhà văn Đỗ Trọng Phụng - tiểu thuyết THỦ LĨNH N’TRANG LƠNG (tập I -350 trang)
3/ Nhà văn Nguyễn Văn Thiện – tiểu thuyết NỐI DÂY (420 trang)
4/ Nhà văn Mỹ Dung – tiểu thuyết THOÁT VÒNG Ô NHỤC (520 trang)
5/ Nhà văn Kim Nhất – tập truyện ngắn CHÙM TRUYỆN NGẮN KIM NHẤT (300 trang)
6/ Nhà Văn H’Xíu Hmok – tập truyện ký KHI MỘT CON CHIM BAY VỀ VỚI ĐÀN (250 trang)
7/ Nhà văn Nguyễn Thị Bích Thiêm – tập truyện ký ĐỪNG BAO GIỜ BOTAY.COM (400 trang)
8/ Nhà thơ Tiến Thảo tập thơ TRĂM BÀI THƠ SEN (140 trang)
9/ Nhà thơ Huệ Nguyên – tập thơ PHÍA NGÀY LOANG NẮNG (150 trang)
10/ Nhà thơ Hà Thị Sơn Thúy – tập thơ HƠI THỞ THỜI GIAN (200 trang)
 Xin chúc mừng và chia vui với các tác giả được xét hỗ trợ năm 2013.
* BCH Chi hội cũng quyết định tổ chức một chuyến đi thực tế sáng tác tại các tỉnh miền Trung từ 7 đến 10 ngày vào đầu tháng 9 năm 2013 cho các tác giả đã đăng ký trong quý II năm 2013

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

DÒNG SÔNG VẪN HÁT bút ky của HỒNG CHIẾN - CHƯ YANG SIN SỐ: 203 THÁNG 7 NĂM 2009





Nhắc đến Dak Lak người ta nghĩ ngay đến vùng đất được mệnh danh là xứ sở cà phê Việt Nam. Quả đúng như vậy, nếu có dịp bạn theo quốc lộ 14A từ Gia Lai qua, hay quốc lộ 26A dưới Khánh Hòa lên, hoặc Quốc lộ 27A bên Đà Lạt về, đến địa phận Dak Lak bạn sẽ thấy những cánh rừng cà phê bạt ngàn, trải dài như vô tận. Cây cà phê sinh trưởng trên mảnh đất ba zan trù phú này phần đa thuộc nhóm cà phê có tên khoa học là Rubusta người dân ở đây gọi nôm na là cà phê vối (vì lá giống với lá cây vối người Việt thường lấy lá nấu nước uống), khác xa so với cà phê các nơi bởi sự đồng đều về chiều cao và tán. Thường thường cây cà phê vối khi đưa vào kinh doanh cao 1,2m tán rộng xấp xỉ 1,4m; nếu cây nào trên 10 tuổi có thể cao tới 1,5m, tán rộng hơn 2m một tý. Mùa hoa cà phê nở tất cả các kẽ lá đều bung ra những chùm hoa trắng tinh khôi, thơm ngát. Mùa hoa cà phê nở cũng là mùa con ong đi lấy mật và mùa bướm bướm về. Không biết loài bướm ở đâu ra mà nhiều đến thế, chúng bay kín trời, màu sắc rực rỡ, bay qua các lô cà phê hàng tháng trời không hết. Nếu ai có dịp tới Dak Lak được chiêm ngưỡng một lần điệu vũ của các loài bướm và hít thở hương thơm của hoa cà phê sẽ trọn đời không quên. Còn người dân sinh ra và lớn lên ở Dak Lak dù vì cuộc sống mưu sinh phải đi xa, nhưng đến mùa hoa cà phê nở cũng háo hức tìm đường về dù chỉ một ngày để thả hồn mình với hoa với bướm rồi đi cho đỡ nhớ.
Nhưng Dak Lak không chỉ có cây cà phê làm say đắm lòng người, mà thiên nhiên còn ban phát cho nơi đây một dòng sông khác lạ, dòng sông chảy ngược. Thông thường ở đất nước Việt Nam chúng ta “trăm sông đổ một biển Đông”, mọi con sông đều từ phía tây chảy xuôi ra biển Đông; riêng sông ở Dak Lak lại chảy ngược, sông bắt nguồn từ phía đông chảy ngược qua phía tây và đổ về sông Mê Kông thuộc địa phận Vương quốc CamPuChia, đó là sông Srê Pôk. Sông Srê Pôk có hai nhánh chính, một nhánh được đặt tên là Krông Ana (theo tiếng Êđê là sông Cái hay còn gọi sông Vợ) bắt nguồn từ dãy ChưYangSin thuộc dải Trường Sơn chảy qua các huyện Krông Pak, Krông Bông và Krông Ana trước khi hợp dòng với sông Krông Knô tạo thành sông Srê Pôk. Nhánh thứ hai bắt nguồn từ tỉnh Lâm Đồng chảy qua địa phận hai tỉnh Dak Nông và Dak Lak trước khi hòa với dòng sông Krông Ana được đặt tên: sông Krông Knô (theo tiềng Ê đê là sông Đực hay còn gọi là sông Chồng); nếu sông Krông Ana hiền hòa, tạo ra những cánh đồng lúa nước rộng lớn, phì nhiêu nơi nó chảy qua thì ngược lại, dòng sông Krông Knô tương đối hung dữ; nó len lỏi qua các dãy núi cao, tạo nên lắm thác ghềnh trước khi ùa vào dòng Krông Ana hình thành sông Srê Pôk. Có lẽ vì “vợ chồng sông” lâu ngày bị chia cắt nên khi chúng gặp nhau đã quấn quýt lấy nhau, gầm thét lao về phía tây tạo nên nhiều thác nổi tiếng như: Thác Đray Sap, Đray Nur, Trinh Nữ, Đray H’Linh… thác nào cũng đẹp, thơ mộng và hung vĩ. Trước đây, khi vùng đất quang thành phố Buôn Ma Thuột còn hoang vu, rừng còn nhiều thú dữ, nhưng ông vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn – Bảo Đại đã bắt quân dân phục dịch băng rừng lội suối đến thác Đray Sap thưởng thức. Trước cảnh đẹp của thác, ông vua nổi tiếng ăn chơi một thời không ngớt trầm trồ thán phục và lấy ngay tên ông nội của mình đặt tên cho thác, từ đó dòng thác được mang tên: thác Gia Long. Nhắc lại điều ấy để bạn đọc có thể hình dung ra dòng thác hùng vĩ như thế nào!
Sau ngày thống nhất đất nước ngành du lịch Dak Lak tổ chức nhiều tua du lịch đến các dòng thác trên dòng Srê Pôk và thu hút được đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Đặc biệt từ khi bước qua thế kỉ XXI, với chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước ta, nền “công nghiệp không khói” ở Dak Lak có bước phát triển vượt bậc và cũng được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối tốt, thu hút ngày càng đông du khách đến thăm, góp phần đáng kể nguồn thu ngân sách cũng như tạo cho nhiều người dân nơi đây có thêm việc làm. Vì thế khi đến Dak Lak du khách không chỉ được thưởng thức ly cà phê thơm ngát chính hiệu mà còn được đi thăm những dòng thác xinh đẹp, đến rồi không muốn về.
Trong những tháng đầu năm 2009, một số báo đưa tin: Các dòng thác trên sông Srê Pôk bị khai tử! Nghe nói giật mình, tôi quyết tâm đi một chuyến xem sao. Theo như sở Công Thương Dak Lak cho biết: trên sông Srê Pôk ngoài nhà máy thủy điện Đray H’Linh được xây dựng từ thập niên 80 của thế kỷ trước vẫn vận hành tốt, hiện nay có 3 nhà máy thủy điện đang thi công và sắp hoàn thành là: nhà máy thủy điện Buôn Tua Sar, nhà máy thủy điện Buôn Kup, nhà máy thủy điện Srê Pôk 3, ngoài ra còn có 2 nhà máy đã được duyệt dự án, sẽ thi công vào thời gian sắp tới là: nhà máy thủy điện Srê Pôk 4 và nhà máy thủy điện Srê Pôk 5.  Dòng sông chảy ngược quả là giàu tiềm năng để khai thác “than trắng”, biến nó thành điện phục vụ sự nghiệp “hiện đại hóa đất nước”. Nhưng những nhà máy thủy điện mọc lên nhiều như vậy có ảnh hưởng gì đến các dòng thác nói riêng và cuộc sống của người dân trên địa bàn Dak Lak nói chung? Cũng có người cho rằng xây dựng các nhà máy thủy điện còn cần phải tính đến diện tích mặt hồ vì đất đai có ít, xây dựng các hồ chưa nước lớn sẽ chiếm mất nhiều diện tích đất thì không có lợi về kinh tế lâu dài. Tôi mang thắc mắc này trao đổi với ông Trần Ngọc Ánh – Trưởng phòng Tổ chức kiêm Chánh văn phòng Ban quản lý thủy điện 5. Ông cho biết: Trong thập niên 60 của thế kỷ trước, nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Hỏi đâu thác nhảy – cho điện xoay chiều”; để xây dựng các nhà máy thủy điện, người ta chủ yếu dựa vào các dòng sông có thác, các nhà máy thủy điện được xây dựng trên sông Srê Pôk cũng theo một quy luật ấy cả. Theo như tính toán, các dòng thác vẫn bình thường sau khi nhà máy đi vào hoạt động vì công ty cam kết để tối thiểu lượng nước chảy qua thác là 8 đến 10 m3/ giây. Hiện nay đập chứa nước của thủy điện Buôn Kup đã hoàn thành đang tích nước để chuẩn bị chạy thử, nước trên các thác Gia Long, Dray Nur, Đray Sáp… vẫn chảy bình thường. Tôi phân vân bán tín bán nghi nên quyết tâm đến thăm các công trình thủy điện trên dòng Srê Pok xem sao.
Trước đây nói đến căn cứ cách mạng Nam Ka, người ta thường nghĩ ngay đến vùng đất khô cằn, đường sá cách trở, khó khăn. Bốn bề là núi cao bao bọc, việc đi lại thông thương với bên ngoài chỉ có một cách duy nhất là đi bộ trèo đèo lội suối hoặc dùng voi để vận chuyển. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược, địa danh Nam Ka là nỗi kinh hoàng của bọn cướp nước và bán nước đồng thời là niềm tự hào của quân và dân ta. Sau ngày thống nhất đất nước, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, ta chưa  làm đường lớn vào đây được. Phải đến tận khi có dự án nhà máy thủy điện Nam Ka, con đường rải nhựa, vượt qua núi cao, vực sâu để đến với vùng đất oai hùng một thuở, ô tô xe máy chạy đến tận khu vực hành chính của xã. Ông Trương Quang Hồng, Trưởng ban Quản lý dự án nhà máy thủy điện Buôn Tua Sar cho biết: nhà máy thủy điện Buôn Tua Sar là công trình thủy điện đầu nguồn sông Srê Pôk; theo thiết kế, hồ chứa nước của công trình thủy điện này có dung lượng 800 triệu m3, vốn đầu tư 2.500 tỷ, công suất nhà máy 86 mêgaW. Nếu so với các nhà nhà máy đã và đang thi công trên cùng dòng sông này thì công suất không phải lớn, nhưng có vai trò hết hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà máy thủy điện khác cũng như việc phòng chống lũ lụt, vì nó có nhiệm vụ điều tiết nước cho sông Srê Pốc và các nhà máy thủy điện phía đưới. Công trình chính thức khởi công ngày 25 tháng 11 năm 2004 và dự kiến hoàn thành trong năm 2010. Tôi lên thăm công trình được tận mắt chứng kiến cảnh thi công giai đoạn cuối, người xe hối hả làm việc dưới cái nóng oi bức mùa khô. Tình cờ tôi gặp một đoàn người dân tộc Êđê đi làm về đang rửa chân phía dưới chân đập, bà amí H’Jut vui vẻ cho tôi biết: Minh ưng lắm cái con đập này, nó làm cho sông bớt giận giữ, không lên cướp phá bắp lúa như trước đây nữa. Con đường nhựa từ thị trấn vào đây rộng lắm, đi được nhiều xe nên hàng hóa mang vào được nhiều, lại rẻ như ngoài phố, thích lắm. Trả lời câu hỏi của tôi: Công trình này có lấy mất nhiều ruộng rẫy không? Ồ, không nhiều đâu, đây là vùng toàn đá thôi, chúng xếp lại thành ghềnh đẹp lắm; nay nó chìm dưới nước cả rồi. Cả vùng chỉ có 4 hộ được tiền trả công làm rẫy; họ nhận tiền đền bù mua nhiều thứ đẹp lắm, vui lắm. Nhìn những khuôn mặt rạng ngời hạng phúc khi nói về công trình thủy điện đang xây như nói về chính công trình của mình; điều đó chứng tỏ công trình đã được sự đồng thuận của người dân trong vùng. Công trình khởi công, đường sá được làm mới, điện lưới kéo đến tận từng gia đình, trên đầu hồi nhiều nhà đã mắc chảo DTH, bắt sóng truyền hình từ vệ tinh. Nam Ka hôm nay đã có bước chuyển mình về mọi mặt; ngoài đường, điện ra, trường học cũng được đầu tư xây dựng khang trang. Mảnh đất heo hút khi xưa, nay đã trở thành một địa danh du lịch hấp dẫn để du khách đến thăm nhà máy thủy điện và ngắm nhìn đỉnh núi Nam Ca cao 1300 mét so với mặt nước biển, đứng soi bóng xuống mặt hồ; thăm căn cứ cách mạng Nam Ka oai hùng một thuở...
Rời  thủy điện buôn Tua Sar, tôi đến thăm công trình thủy điện Buôn Kup. Đây là công trình thủy điện lớn nhất được xây dựng trên sông Srê Pôk, có vốn đầu tư 5.000 tỷ đồng, công suất nhà máy 280 mêgaw, đường hầm dẫn nước vào nhà máy dài 4,7km (dài nhất Việt Nam và Đông nam Á). Tôi quan tâm đến công trình này vì hồ chứa nước án ngữ ngay sát các dòng thác nổi tiếng như: Dray Sáp 1, Dray Nur, Trinh Nữ… liệu hồ đang đóng cửa tích nước thì các dòng thác sẽ ra sao! Đứng trên con đập chính của nhà máy thủy điện Buôn Kup ngắm nhìn mặt hồ rộng mênh mông, mang nặng phù sa; xa xa về hướng đông bắc, cà phê xanh tốt mỡ màng trải dài xa tít tắp. Tôi hỏi ông Nguyễn Đức Khẩn thôn Quỳnh Ngọc, xã Ea Na, huyện Krông Ana, một lão nông rời quê Thái Bình vào đây lập nghiệp gần ba mươi năm về ý kiến của người dân khi công trình thủy điện xây dựng trên quê hương họ. Ông vui vẻ cho biết: Có cái hồ nước lớn thế này thì tốt quá chứ. Anh xem, cà phê bao quang bờ hồ rất cần nước tưới, nay thì không lo bị thiếu nước, độ ẩm tăng nên năng suất chắc chắn sẽ cao; khí hậu cũng tốt hơn cho sức khỏe con người, ấy là chưa kể sau vài tháng nữa việc kinh doanh, khai thác nguồn lợi thủy sản trên mặt hồ sẽ tạo việc làm cho nhiều hộ nông dân có thêm thu nhập. Nếu các bên liên quan đầu tư thoả đáng thì đây còn là điểm du lịch sinh thái lý tưởng, chắc chắn sẽ thu hút được nhiều du khách đến thăm.
Con đập ngăn nước cơ bản đã hoàn thành, chỉ còn một ít công nhân đang rải đá chuẩn bị rải nhựa và trồng cột đèn điện. Nhìn về phía hạ lưu, dù các cánh cửa đóng kín để tích nước, nhưng trên dòng chính, nước sông vẫn chảy khá mạnh. Tôi hỏi ông Trần Ngọc Ánh: Các cửa đập đều đóng kín, tại sao nước trên sông Srê Pok vẫn chảy nhiều như vậy? Anh nhìn phía chân con đập ấy, nước thấm qua đập đấy. Khi thiết kế, người ta không lường trước được hết các vết nứt của đá nên khi hồ bắt đầu tích nước mới phát hiện ra đập bị thấm nước, bên thi công đã thuê các chuyên gia đầu ngành về khoan, bắn bê tông hiện đại nhất nhưng vẫn không thể khắc phục được, đành phải chấp nhận! Công trình lớn như thế này mà đập nước bị thấm, lượng nước chảy ra sông đạt vận tốc từ 10 đến 12m/giây, liệu tuổi thọ công trình sẽ như thế nào về lâu dài. Như đoán được băn khoăn của tôi, ông Ánh cho biết thêm: Theo tính toán của các chuyên gia, nước chảy qua các kẽ đá ở sâu dưới lòng đất, không ảnh hưởng gì đáng kể đến công trình. Theo cách giải thích như thế, tôi biết vậy chứ mình đâu có chuyên môn trong lính vực này đâu! Xuôi sông Srê Pôk, tôi đến thác Dray Sáp 1 (tên gọi mới của thác Gia Long), cách đập thủy điện Buôn Kup khoảng 2 km; thác vẫn chảy nhưng  diện tích mặt thác bị thu hẹp lại đáng kể, sự hùng vĩ vần còn đó, song đã bớt đi nhiều sự hung dữ. Trời xế chiều, cầu vồng bảy sắc vẫn xuất hiện trên mặt thác. Anh bạn cùng đi với tôi chợt reo lên thích thú khi khám phá ra một điều hết sức mới mẻ về dòng thác: nước rất trong! Đúng thật, nước trong như lọc. Nếu ai đã từng đến thăm những dòng thác trên sông Sê rê pôk trước đây, cho dù đang trong mùa mưa hay cuối mùa khô, chúng ta thấy nước sông vẫn đục ngầu. Còn hôm nay, nước trong xanh, ta có thể nhìn thấy cả những chú cá đang lao mình đùa giỡn với thác. Đây lại là một điều thích thú nữa. Nước trong cũng phải thôi vì nó thấm qua chân con đập, len qua các kẽ đá từ sâu trong lòng đất trước khi trở lại với dòng sông nuôi các dòng thác. Thế là ngoài cả dự kiến của các nhà thiết kế khi hoạch định “nuôi” các dòng thác bằng cung cấp nước qua các van xả, giờ đây dòng sông tự nó tìm ra cách để tồn tại và vẫn cất tiếng hát vang khi qua các dòng thác.

Các công trình thủy điện trên dòng sông “chảy ngược” dù đã hoàn thành hay đang thi công đã góp phần làm phong phú thêm cảnh đẹp Tây Nguyên. Thật khó tin trên vùng đất chỉ có nắng và gió này đã có thêm những hồ nước lớn, không những là nguồn cung cấp điện phục vụ con người mà còn góp phần cải thiện mội trường và có ý nghĩa quyết định đến tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng cà phê, lúa, hoa màu… trên vùng đất mà nó đi qua. Xét cho cùng, chúng ta phải chấp nhận thực tế, một vài thác ghềnh nổi tiếng trên sông có thể bị mất đi hoặc kém dữ dội như xưa, nhưng đổi lại ta có được lợi ích to lớn phục vụ cuộc sống thì sự đánh đổi đó cũng chấp nhận được. Tôi tin cho dù mùa mưa hay mùa khô, dòng Srê Pôk vẫn hát, khúc hát oai hùng, mạnh mẽ, tự tin vì nó đang ngày càng phục vụ cuộc sống, phục vụ con người hữu ích hơn.   

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

KHAI MẠC CUỘC THI VẼ TRANH HÈ 2013

Sáng ngày 28 tháng 7 vừa qua, tại Nhà văn hóa Thanh thiếu nhi tỉnh Đắ Lăk đã tỏ chức Lễ khai mạc Cuộc thi vẽ tranh ƯỚC MƠ CỦA EM. Xin giới thiệu với các bạn vài hình ảnh buổi Lễ khai mạc này

Thêm chú thích ảnh trên: Văn nghệ chào mừng


Anh Kpas Y Khoa - Phó giám đốc Nhà văn hóa Thanh thiếu nhi đọc lời khai mạc (ảnh trên)

Thay mặt cho các bạn tham dự cuộc thi, bạn Thu Vân phát biểu (ảnh trên)

Phụ huynh và các bạn tham gia cuộc thi tại buổi lễ khai mạc.

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

NGỌN NẾN TRI ÂN

Nhân ngày Thương Binh - Liệt sĩ Việt nam (27/7/2013), Tỉnh ủy, Ủy ban nhân tỉnh và Tỉnh đoàn tổ chức thắp nến tri ân các Anh hùng - Liệt sĩ; xin giới thiệu cùng các bạn chùm ảnh của tác giả Xuân Chiên nhân sự kiện này

Thêm chú thích
Thêm chú thích

Thêm chú thích





Thứ Ba, 23 tháng 7, 2013

THÔNG BÁO


Logo của Hội Văn Nghệ Đắk Lắk và Tạp chí Chư Yang Sin
Chuẩn bị kỷ niệm 23 năm ngày thành lập Hội Văn Nghệ Đắk Lắk (6/9/1990-6/9/2013), Ban chấp hành Hội quyết định in Tạp chí Văn nghệ Chư Yang Si số đặc biệt gộp hai số 252&253 (tháng 8&9); đề nghị hội viên và cộng tác viên gửi bài tham gia số đặc biệt này về tòa soạn trước ngày 10 tháng 8 năm 2013. Rất mong nhận được bài của các hội viên nguyên là hội viên của Hội nay đã chuyển nơi cư trú về các tỉnh thành phố khác. Trân trọng cảm ơn.

LÃNH ĐẠO HỘI QUA CÁC THỜI KỲ



Nhà thơ Hữu Chỉnh - nguyên Chủ tịch Hội khóa I&II (1990-2000)
Nhà thơ Phạm Doanh - Phó chủ tịch Hội, Tổng biên tập Tạp chí Chư Yang Sin  khóa I,II&III (1990-2015)








Nhà văn, Nhạc sĩ Linh Nga Niê Kđam - Chủ tịch Hội khóa III (2000-2005)
Nghệ sĩ Ưu tú Vũ Lân - Phó chủ tịch thường trực Hội khóa III&IV (2005-2010)
Nhà văn Đinh Hữu Trường - Chủ tịch Hội khóa IV (2005-2010)
Nhà văn Khôi Nguyên - nguyên Phó chủ tịch Tổng biên tập Tạp chí Chư Yang sin khóa IV (2005-2010), Chủ tịch Hội khóa V (2010-2015)
Nhà văn Hồng Chiến - Phó chủ tịch thưởng trực Hội khóa V (2010 - 2015)
Nhà văn Niê Thanh Mai - Phó chủ tịch hội khóa V (2010-2015)

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013

CHÚNG TA ĐÃ CÓ MỘT VỤ MÙA BỘI THU tác giả HỒNG CHIẾN - CHƯ YANG SIN SỐ 179 THÁNG 7 NĂM 2007





(Trích báo cáo tổng kết Trại sáng tác Văn học-Nghệ thuật
 khu vực Tây Nguyên tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột- tháng 6 năm 2007)



... Được sự quan tâm của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật việt nam, Trại sáng tác Văn học-Nghệ thuật khu vực Tây Nguyên được tổ chức tại Thành phố Buôn Ma Thuột – Dak Lak tháng 6 năm 2007. Theo danh sách triệu tập có 21 tác giả Văn học, Mỹ thuật, Âm nhạc thuộc các Hội VHNT khu vực Tây Nguyên và 05 tác giả dân tộc thiểu số thuộc các Hội: Quảng Trị, Quảng Ngãi, Phú Yên và Ninh Thuận về dự trại. Vì lý do bận công tác nên hai tác giả của tỉnh Ninh Thuận không tham dự được. Trong số 24 trại viên tham gia trại lần này thuộc các lĩnh vựcï: Văn học-15 người, Âm nhạc - 5 người, Mỹ thuật - 4 người. Toàn trại có 4 tác giả  nữ, tác giả  người dân tộc thiểu số 8 người, nữ dân tộc thiểu số 3 người.
Ngày 18 tháng 6 năm 2007 trại chính thức khai mạc tại TP Buôn Ma Thuột, với sự có mặt của bà Mai Hoa Niê Kdam - Phó chủ tịch UBND tỉnh Dak Lak, nhà thơ Bằng Việt - Phó chủ tịch Uỷ ban toàn Quốc liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam, cùng đại diện lãnh đạo các Hội năm tỉnh Tây Nguyên. Trong ngày vui khai mạc, các đại biểu đều có những lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến các tác giả dự trại lần này. Việc chọn Buôn Ma Thuột làm nơi đặt trại cũng đã nói lên sự quan tâm của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam đến Tây Nguyên nói chung và Dak Lak nói riêng trong quá trình phát triển và hội nhập. Hy vọng các văn nghệ sỹ trong những ngày dự trại sẽ có những tác phẩm mang hơi thở của núi rừng Dak Lak.
Qua thời gian 12 ngày tham gia trại, được sự quan tâm của ban lãnh đạo trại, các anh chị em trại viên đi giao lưu với văn nghệ sỹ  Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam khu vực Nam trung bộ và Tây Nguyên tại thị xã Kon Tum. Ở cuộc gặp gỡ này, nhiều tác giả cao tuổi đã thẳng thắn trao đổi, giải đáp  những băn khoăn, vướng mắc mà một số cây bút trẻ hiện nay đang sáng tác về đề tài dân tộc ít người mắc phải sai lầm trong cách thể hiện. Chẳng hạn việc sử dụng ngôn ngữ đồng bào được phiên âm sang tiếng phổ thông như thế nào cho đúng, nêu bật được đặc điểm riêng của từng dân tộc chứ không phải na ná như nhau, dân tộc nào dùng cũng được. Chẳng hạn hiện nay một số người lạm dụng từ “cái” như: “Mình không ưng cái bụng!” “Cái bụng mày không tốt vớ!” “Cái tai mày toàn nghe chuyện xấu thôi à!”… và cho đó là giọng người dân tộc, thể hiện đặc điểm dân tộc. Nào ai biết đó chỉ sự áp đặt! Qua trao đổi, nhiều trại viên cũng cảm thấy giật mình về vốn sống thực tế, cũng như cách thể hiện trong tác phẩm của mình còn nhiều điều phải xem xét lại. Cuộc gặp mặt cảm động và bổ ích này, giúp cho các tác giả dự trại tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm quý báu làm vốn trên con đường sáng tạo văn học – nghệ thuật về vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngoài ra ban lãnh đạo trại còn tổ chức các cuộc  giao lưu và đi thực tế tại làng văn hoá Dak Răng, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; trung tâm du lịch Bản Đôn, huyện Buôn Đôn; Thác Dray Nur, huyện Krông Ana, tỉnh Dak Lak; gặp gỡ các nghệ nhân buôn Kô Sia, Tp Buôn Ma Thuột; các chuyến đi đó đã góp phần quan trọng giúp các văn nghệ sỹ không những hiểu thêm về một vùng đất tươi đẹp và hùng vĩ mà còn hiểu kĩ hơn phong tục tập quán các dân tộc anh em đang sinh sống trên vùng đất Tây Nguyên thơ mộng và giàu truyền thống đấu tranh cách mạng.
Có thể nói các văn nghệ sỹ đến trại lần này ai cũng mang trong mình những dự định lớn lao, đó là sáng tạo nghệ thuật để tự khẳng định mình. Chính vì thế, các trại viên chấp hành tốt nội quy của trại, tập trung tất cả sức lực của mình cho sáng tạo nghệ thuật nên kết quả về số lượng tác phẩm sáng tác được thật đáng mừng. Về Thơ: 133 bài; Văn xuôi: 26 tác phẩm; Nhạc: 10 ca khúc; Mỹ thuật: 05 tác phẩm.
Những con số thống kê nêu trên đã nói lên phần nào sự nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật lần này của các tác giả dự trại. Tuy trong cuộc sống đời thường nhiều tác giả còn gặp khó khăn, vất vả như hoạ sỹ A Nhú đến từ Kon Tum  phải vẽ tranh chỉ bằng một bàn tay trái, đến trại lo canh cánh không có tiền mua cọ, mực, vải để vẽ. Gần bế mạc trại lại lo không biết lãnh đạo trại có cho thêm tiền xe để đi về không. Lo thì lo vậy nhưng vẫn say mê với cây cọ bạn bè vừa mua tặng để có tác phẩm làm đắm say người xem.
Đến dự trại sớm nhất là đoàn Dak Nông, với những khuôn mặt quen thuộc như tác giả Nguyễn Ngọc Hinh, Vi Lập Công, Nguyễn Văn Hùng, Ngô Văn Khoa có cái trăn trở, tìm tòi để thể hiện nét đặc trưng riêng của mỗi người, cuối đợt đã hoàn thành những tác phẩm được ban thẩm định của trại đánh giá cao.
Nhà thơ Hồ Chư từ miền gió lửa Quảng Trị đặt chân đến Dak Lak khí hậu thay  đổi nên thường nhức đầu, sổ mũi, vẫn cố gắng có những sáng tác mới. Những tác giả đến từ Kon Tum như Nguyễn Ngọc Tân,  Lê Minh Thế, Đào Quốc Sủng, mỗi người một hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chăm chỉ sáng tác, chưa được nửa thời gian ở trại đã có tác phẩm gửi nhờ thẩm định, góp ý. Gia Lại chung địa giới với Dak Lak, các tác giả đến dự trại với không khí như trở về nhà, từ những người tuổi đã nhiều như Hoàng Kim Hữu, Nguyễn Đình Phê, Lê Hồng Phương đến nhà thơ trẻ như Ngô Thị Thanh Vân có cái háo hức được gặp gỡ, giao lưu và bừng bừng khí thế đã cho ra đời những đứa con tinh thần dạt dào cảm xúc.
Đoàn Lâm Đồng góp ba khuôn mặt quen thuộc là tác giả Hà Huy Hiền, Nguyễn Thị Vĩnh, vẫn say sưa làm việc, hoàn thành nhiều tác phẩm ngay tại trại; nhưng so với hai người nhiều tuổi cùng đi, cực nhất có lẽ là tác giả sáng tác mĩ thuật, K’Ming Tuấn. Anh lặn lội đi vào các buôn làng gần trọn ngày trời tìm mua được gốc mít ưng ý chở về, mấy cô nhân viên khách sạn xúm lại hỏi: Anh làm thợ mộc à! Cái gã “thợ mộc” ấy suốt ngày cứ kì cạch, kì cạch để đến khi gần bế mạc trại làm mọi người đi qua chỗ gã làm việc phải thốt lên: Tài quá! Bức tượng cô gái đang cố sức nâng ché rựơu sao mà sống động đến thế!
Nữ tác giả Hơ Vê đến từ Quảng Ngãi, tuy tuổi đã nhiều, nhưng vẫn miệt mài với trang giấy trắng. Chị băn khoăn trao đổi với bạn viết: Ai cũng đánh bản thảo bằng vi tính, còn mình chỉ biết viết tay thôi, không biết thầy có đọc không? Chị cứ miệt mài đóng cửa viết, viết đến quên cả ăn cơm. Nhiều hôm bạn bè đợi mãi không được phải lên tận phòng cất bút giùm, chị mới miễn cưỡng đi ăn. Cách lao động của chị cũng là điều khích lệ các anh chị em khác say mê sáng tác.
Đặc biệt, tham gia trại lần này có nhà văn đã khẳng định tên tuổi của mình trên văn đàn như nhà văn Y Điêng, đến từ Phú Yên, vừa được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học; tuy tuổi đã ngoài tám mươi xuân nhưng sức khoẻ còn dẻo dai và sức viết còn rất khoẻ, trong những ngày ở trại không những miệt mài sáng tác, mà còn dành thời gian trao đổi, góp ý cho các anh chị em thuộc thế hệ đàn em. Những chỉ dẫn của lớp cha anh đi trước, mà đó lại là tác giả người dân tộc thiểu số chỉ cách viết về người thiểu số thât đáng quý biết bao. Cây đại thụ trong làng văn chương trên dãy Trường Sơn này vẫn còn dẻo dai, sung sức lắm, thế hệ đi sau rất cần những kinh nghiệm quý báu của những người đi trước như Ông truyền lại.
Đoàn Dak Lak, bên cạnh những tác giả quen thuộc với độc giả cả nước như Niê Thanh Mai (người vừa ẵm giải nhì cuộc nthi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Quân Đội), Lê Nhật Thanh, Tôn Nữ Ngọc Hoa, Hồ Tuấn, Hồng Chiến đã hoàn thành nhiều tác phẩm ngay tại trại được đánh giá cao, ta còn bắt gặp nhà thơ trẻ H’Trem Knul, cô giáo người dân tộc ÊĐê đến từ huyện Krông Pak, mới 25 tuổi đời, nhưng ngòi bút thật già dặn và đang ấp ủ hoài bão lớn về sáng tác nghệ thuật; người con gái nhỏ nhắn, rất kiệm lời này, ngoài những buổi đi thực tế, giao lưu, thời gian còn lại tự nhốt mình trong phòng, chỉ xuất hiện vào các bữa ăn; đến ngày “nộp quyển” mới trình làng hẳn hai chục bài thơ làm mọi người phải tròn mắt. Phục!
Trại do Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam tổ chức tại Buôn Ma Thuột tháng 6 năm 2007 đã thành công hơn cả mong đợi. Ngoài số tác phẩm giao nộp cho lãnh đạo trại, các tác giả còn để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng người hâm mộ, cũng như vùng đất mà các văn nghệ sỹ đã đến, đi qua, hoặc giao lưu.
30 tháng 6! Ai cũng giật mình. Thời gian sao trôi nhanh thế! Mười hai ngày dự trại đã vụt bay qua thật rồi ư! Ừ! Đối với những ngày vui, thời gian không chiều theo ý của người. Đành chia tay nhau và cùng hẹn: những tài liệu thu lượm được, những vốn sống tích luỹ được qua trại lần này hi vọng sẽ là vốn quý cho các anh chị em văn nghệ sỹ có thêm những sáng tác mới sau này đứng được với thời gian.

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

KHOẢNG KHẮC PRENN - ĐÀ LẠT

Thêm chú thích
Thêm chú thích


Thêm chú thích

Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

THUNG LŨNG TÌNH YÊU

Mời các bạn cùng tôi đến thăm Thung Lũng Tình Yêu, khu du lịch nổi tiếng của thành phố Đà Lạt!

Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích
Thêm chú thích

Thêm chú thích

Thứ Tư, 10 tháng 7, 2013

CHƯ YANG SIN SỐ: 251 - tháng 7 năm 213



Tạp chí Văn Nghệ CHƯ YANG SIN
Xuất bản hàng tháng

Số: 251

Tháng 7/2013


                                   Tòa soạn:                    
172 Điện Biên Phủ - TP.Buôn Ma Thuột - Đắk Lắk
ĐT :  0500.3840 276
Email: cuyangsindaklak@gmail.com
                                              
Quyền Tổng biên tập:
KHÔI NGUYÊN

Phó Tổng biên tập thường trực:
 HỒNG CHIẾN

Phó Tổng biên tập:
 ĐẶNG BÁ TIẾN

Ban biên tập:
NGUYỄN VĂN THIỆN
PHẠM HUỲNH
AN QUỐC BÌNH
HUỲNH NGỌC LA SƠN

Trình bày:

Y KUAN NY NIÊ

AN QUỐC BÌNH

Thiết kế mỹ thuật:
AN QUỐC BÌNH

Sửa bản in:
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT

Trong số này


 VĂN:
      l Suy ngấm sau “một vụ mùa” – HỒNG CHIẾN
l      Tận mặt Tây bắc (ký) – VŨ DI
l      Một sắc Cao Nguyên  (Tùy bút) THỦY LUNG LINH
l  Bài ca Tuyệt mật (truyện ngắn) – TRUNG TRUNG ĐỈNH 
l      Viên ngọc quý (truyện ngắn) – NGUYÊN HƯƠNG 
Đồng tiền lẻ (truyện ngắn) - Y NGUYÊN
l Bạn chỉ sống có một lần (truyện ngắn) HỒ THU HIỀN
l Ami còn yêu chị lắm không? (truyện ngắn) H’XÍU HMOK
l Đêm giọt châu (truyện ngắn) TRẦN THU THỦ
l Đứng yên (Truyện ngắn nước ngoài) VÕ HOÀNG MINH (dịch)




THƠ của các tác giả:
HOÀNG THANH HƯƠNG – ĐẶNG BÁ TIẾN – VŨ DI – NINH ĐỨC HẬU – ĐỖ THƯỢNG THẾ - ĐOÀN GIAO HƯỞNG – HỒ HỒNG LĨNH – NGUYỄN VĂN HIẾU- ĐỖ VĂN TIẾN – NGUYỄN HƯNG HẢI – DUY HOÀN – LÊ VĨNH TÀI – HUỆ NGUYÊN – LÊ THỊ MINH NGHIỆM – NGÔ THẾ LÂM – PHAN HOÀI THỦY – LÂM BẰNG – TRẦN ANH THUẬN – BÙI XUÂN TIẾN – CÔNG NAM – LÊ HÒA – LÊ THÀNH VĂN – THANH TRÁC NGUYỄN VĂN – NGUYỄN TRƯỜNG THỌ -

Nghiên cứu giới thiệu – phê bình:

l                       Mây và sóng -  VŨ BÌNH LỤC
l                       Tổ ấm tình ngươi...        PHẠM NGỌC HIỂN
l                       Lạ lùng Tây Nguyên   - NGUYỄN VĂN THIỆN
l                       Mênh mang trường ca...     – NGUYỄN HUY LỘC
l                       Ngo Tiến sỹ và...          – NGUYỄN HUY LỘC
l                       Những kỷ niệm về y vơn – TRƯƠNG BI
                                      

Thư văn nghệ (Tháng 7.2013)


SỐNG XỨNG ĐÁNG
VỚI NGƯỜI ĐÃ HY SINH
   

     Trong lời kêu gọi nhân ngày 27.7.1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Hỡi toàn thể đồng bào! Anh em thương binh và gia đình tử sĩ! Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó đến như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản  họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ”.
      Cũng từ nhận thức đó, trong lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở mọi cán bộ, đảng viên: “Ăn quả phải nhớ người trồng cây. Trong cuộc sống tưng bừng vui vẻ hôm nay chúng ta phải nhớ đến những anh hùng, liệt sĩ của Đảng ta, của dân ta”. Đấy cũng là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam.
      Biết ơn người đã hy sinh vì dân, vì nước, là phải biết sống sao cho xứng đáng. Điều này nói thì dễ nhưng làm chẳng dễ chút nào. Có nhiều người đứng trên diễn đàn rao giảng về đạo đức rất hay, nhưng trong hành xử lại rất thất đức. Lợi dụng chức quyền, họ sẵn sàng bán đứng đồng đội, sẵn sàng đưa và nhận hối lộ nhằm giành giật chức quyền, vơ vét tài sản của nước, của dân về cho cá nhân mình; bỉ ổi hơn, họ còn dùng  mọi thủ đoạn để cướp nhà, cướp đất của gia đình thương binh, liệt sĩ… Họ chính là “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất hiện nay mà Đảng ta đang phải đấu tranh để loại bỏ ra khỏi hàng ngũ của mình.
      Người cầm bút biết ơn sự hy sinh của đồng chí, đồng bào thì phải tự biết xếp mình vào đội ngũ những người tiên phong trong cuộc đấu tranh chống lại cái ác, chống lại sự vô ơn, bạc nghĩa  bằng những tác phẩm tâm huyết có sức chiến đấu cao. Đấy cũng là điều Đảng và nhân dân đang thiết tha mong đợi.                          
                        
CHƯ YANG SIN





Mời bạn vào xem Blogger của tạp chí ChưYangSin theo dường linh: http://vannghedaklak.blogspot.com