Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013

NÉT ĐẸP MỘT VÙNG QUÊ bút ký của HỒNG CHIẾN - CHƯ YANG SIN số: 212 tháng 4 năm 2010




Trong những ngày đầu tháng tư, cả đất trời Tây Nguyên tràn ngập không khí lễ hội chào mừng 35 năm ngày vui chiến thắng, đoàn tụ. Từ thành phố đến buôn làng xa xôi, đường và nhà rợp đỏ bóng cờ hoa. Khuôn mặt người nào cũng lộ nét hân hoan, phấn khởi. Con đường nhưa phẳng lỳ từ thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar về xã Cuôr Đăng cũng không ngoại lệ; vẽ nên một bức tranh quê trù phú, đầm ấm. Rừng cà phê, cao su nối đuôi nhau chạy qua khung cửa xe như không bao giờ hết. Đang giữa mùa khô, thế mà cà phê vẫn tươi mơn mởn, từng chùm quả xanh sẫm sum sê bám quanh kẽ lá hứa hẹn một vụ bội thu. Trời buổi sáng trong xanh, nắng dát vàng lên các ngọn cây càng làm cho phong cảnh thêm phần lộng lẫy.  
Xe chạy êm êm, lòng tôi bồi hồi nhớ lại cách đây chưa lâu, cũng vào một ngày đầu tháng tư năm 2007, Đỗ văn Tri – anh bạn cùng học ba năm cấp ba với tôi, nay là cán bộ của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Thanh Hóa; lặn lội vào Đắk Lắk rủ tôi về huyện Cư M’gar đi tìm mộ anh trai tên là Đỗ Văn Quế, hy sinh tại buôn Rào, ngày 01 tháng 12 năm 1969. Hai anh em đèo nhau trên chiếc HonDa Future II, lang thang qua các nghĩa trang thị trấn Quảng Phú rồi băng qua huyện Krông Buk. Đường đất bụi mù, đất đỏ lâu ngày không có mưa; ô tô, xe máy chạy nhiều nên tơi xốp như bột. Tôi cầm lái không dám chạy hết số thế mà vẫn bị té lăn ra đường vì dưới lớp bột ngập gần nửa bánh xe có một cục đá lớn rình sẵn, Tri văng ra khỏi xe, đụng vào cây cà phê bên đường tạo nên một đám bụi lớn. Hai anh em lồm cồm bò dậy nhìn nhau và bật cười vì không nhịn được; từ đầu đến chân cả hai được phủ một lớp bụi đất vàng khè, đúng màu đất đặc trưng Đắk Lắk. Khi đám bụi lắng xuống, anh bạn tôi thay vì ngồi lên xe chạy tiếp, lại nắm áo tôi giật giật chỉ vào gốc cây cà phê mình đụng phải lúc nãy: “Ông nhìn kìa, lạ không!” Nói rồi anh chạy lại gốc cây bứt một chiếc lá vừa rơi hết bụi đất, để lộ ra mầu xanh sẩm. Giờ thì tôi hiểu vì sao anh ngạc nhiên: tất cả các cây cà phê bên đường đều có một màu nâu vàng do bụi đất bay lên bám vào một lớp khá dày, nhìn qua như tạc bằng đất vậy; nhưng khi nãy do anh ngã chạm vào làm lớp bụi bám bên ngoài rơi ra để lộ màu thật của lá. Đất đỏ bazan Đắk Lắk tốt tươi, màu mỡ; nếu mùa mưa người ta chỉ có thể đi bộ chân không vì nếu đi dép hay giày, đất bám chắc vào thành một cái đế đất khổng lồ đến không thể nhấc chân lên được. Đất Tây Nguyên là thế, tôi giải thích cho anh, anh ngạc nhiên kêu lên thích thú như vừa khám phá ra một điều kỳ diệu. Hai anh em lặn lội một tuần qua các xã được giới thiệu của hai huyện Cư M’gar và Krông Buk nhưng không có kết quả, đành phải về hẹn dịp khác vì anh đã hết phép. Hôm nay đi trên con đường nhựa, nhìn quang cảnh xung quanh, tôi lại nhớ tới chuyến đi năm trước và ngạc nhiên trước sự đổi thay cơ sở hạ tầng nông thôn của một huyện vùng cao. Thời gian chưa lâu, nhưng cảnh vật đã đổi khác quá nhiều.
 “Xã Cuôr Đăng hiện nay là một trong những xã điển hình của huyện, không những làm kinh tế giỏi, an ninh chính trị và xã hội được đảm bảo mà người dân nơi đây còn tự giác xây dựng được những buôn văn hóa tiêu biểu.” Anh Y Mang, Phó trưởng phòng Văn hóa – Thông tin huyện Cư M’gar, ngồi bên cạnh tranh thủ giới thiệu nơi sẽ đưa tôi đến. “Phong trào có gì đặc biệt khác nơi khác không anh”? Tôi hỏi thêm. “Nhiều cái hay lắm, anh cứ đến sẽ rõ thôi”. Tôi bật cười vì cách trả lời nghe hay hay của Y Mang. Xe dừng lại trước cửa trước một ngôi nhà xây, mái lợp tôn, sân đổ bê tông, cây bóng mát trồng ngay hàng thẳng lối cao ngang mái nhà. Ra đón chúng tôi là người đàn ông đứng tuổi, nước da nâu sậm, dáng vẻ khỏe mạnh và nụ cười rất hiền. Vào phòng làm việc, hai bên giới thiệu chủ khách, tôi mới biết tên ông: Ama Diệp – Bí thư đảng ủy xã Cuôr Đăng. Ông cho chúng tôi nắm một vài số liệu cơ bản của xã, toàn xã có: 3.337ha, dân số: hơn 10.000 người, ngoài hai dân tộc chính là Êđê, Kinh còn có Ba Na, H’rê, Lạch... sống tập trung tại 6 buôn, đường liên thôn buôn đã được rải nhựa 100%; toàn xã có một trường mầm non, 2 trường tiểu học, một trường THCS và một trường PTTH được xây dựng kiên cố, cao tầng, không những đủ điều kiện cho các con em trên địa bàn xã học tập, mà còn nhận cả học sinh các xã lân cận. Xã có một trạm y tế với 7 người, trong đó có: 02 bác sỹ đa khoa,  05 y sỹ, ngoài ra còn có 06 cộng tác viên y tế ở 6 buôn; điện lưới Quốc gia đã phủ khắp xã. Ông Bí thư còn cho biết thêm: các hộ có thu nhập trên 100 triệu đồng một năm cũng có khoảng gần chục.
Nghe qua những con số ấn tượng, tôi ngạc nhiên hỏi thêm: “Dân ở đây kinh doanh cây, con gì mà giàu dữ vậy?” Thì cũng như mọi nơi thôi – Ông Bí thư đảng ủy cười trả lời: “Nhờ nhà nước đầu tư xây dựng hai đập chứa nước có diện tích gần 50 ha nên khâu nước tưới cho cây trồng cơ bản được giải quyết. Hiện nay toàn xã có 300 ha cà phê, 51.5 ha cao su, 40 ha lúa nước, 20 ha hồ tiêu và 4 ha trồng màu. Đất của xã trồng cà phê có sản lượng cao vào hàng nhất tỉnh, chất lượng cũng được xếp đứng đầu, dân không giàu mới lạ. Nói như vậy không phải ai cũng giàu cả đâu, toàn xã vẫn có 247 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 12,19% dân số; trong đó có 15 hộ mới nghèo đấy.” Tại sao lại có hộ nghèo mới vậy? Tôi hỏi lại. Ông Bí thư giọng buồn buồn: “Gia đình đông người phải tách hộ; người ta ra ở riêng, không có đất canh tác thì làm sao không nghèo cho được! Ngoài 07 hộ mới tách, 06 hộ đất canh tác quá ít nên không đủ thu nhập tính theo tiêu chuẩn mới nên vẫn thuộc diện nghèo; công thêm 02 hộ sinh con nhiều quá, lại hay đau ốm, tiền thuốc men nhiều nên nghèo thôi.” Những lý do chỉ ra vì sao vẫn còn người nghèo ở đây xem ra bất khả kháng thật. Làm nghề nông mà không có đất hoặc có ít đất thì đói là phải chứ nói gì đến nghèo. Ở đâu cũng gặp trường hợp này chắc phải đành chịu thôi. Tôi băn khoăn hỏi thêm: “Đảng và Chính quyền địa phương đã có biện pháp gì giúp đỡ người nghèo thoát nghèo chưa?” “Có đấy! Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ… đã vận động hội viên của mình theo phương châm “lá lành, đùm lá rách”; “người có nhiều giúp người có ít”, bằng hình thức cho vay không tính lãi, hay đầu tư chăn nuôi, tặng cây giống v.v.. bước đầu đã có hiệu quả tích cực. Ngoài ra Ngân hàng chính sách huyện cũng tạo điều kiện thuận lợi để 248 hộ được vay 1.400.000.000 đồng. Cái khó khăn nhất và cũng là khâu cơ bản nhất là vận động bà con dân tộc thiểu số không sinh con thứ ba. Con nhiều sẽ nghèo, vì thế các cơ quan đoàn thể một mặt tuyên truyền vận động các cặp vợ chồng đang ở tuổi sinh đẻ cách phòng tránh thai, mặt khác bằng những cuộc thi tìm hiểu sinh đẻ có kế hoạch, hay biểu diễn các tiết mục văn nghệ về vấn để này nhằm giáo dục mọi người đã có kết quả rất tích cực. Năm 2009 toàn xã có số trẻ mới sinh là 142 cháu, đạt tỷ lệ 1,32% dân số”. Trả lời câu hỏi của tôi: “Xã có bao nhiêu gia đình có ti vi”, ông Bí thư lại tủm tỉm cười: “Ti vi giờ đây nó là phương tiện giải trí không thể thiếu, vì thế nên cả xã hầu như không còn nhà không không có ti vi, mà họ dùng toàn loại mầu thôi”.
Thật mừng khi nghe nói về thành tích kế hoạch hóa gia đình và mừng hơn khi biết ngay cả những hộ được xếp vào diện nghèo của xã cũng sắm được ti vi để xem. Hộ nghèo mà như thế, còn hộ giầu cuộc sống sẽ ra sao; tôi tò mò muốn biết và đề nghị được đến thăm một hộ nhà gần đây làm ăn khá. Ông Bí thư nói ngay: “Gần đây có gia đình ami Doan kinh tế khá, lại rất tích cực tham gia công tác “tương thân tương ái”, mời các anh chị đến thăm”.
Nhà amí Doan được xây khá rộng rãi, phòng khách lát gạch hoa chiều ngang hơn năm mét còn dài chắc phải gần chục mét, giữa nhà kê bộ xalon lớn, trên bàn để một lọ hoa tươi cắm khá đẹp mắt. Cả đoàn ngạc nhiên nhìn bình hoa tươi rồi nhìn nhau như không tin ở mắt mình. Ông chủ nhà đi vắng, bà chủ đang lo chỉ đạo tốp thợ lập lại dãy chuồng heo; rót nước mời chúng tôi là cô út của gia đình, đang học THCS. Bất ngờ đến thăm một gia đình người Êđê, không những được chứng kiến căn nhà sạch sẽ, gọn gàng, mà còn có hoa tươi cắm sẵn làm chúng tôi quá ngạc nhiên. Bà chủ, tuổi gần 50 mặc bộ đồ lao động bước vào niềm nở nói với chúng tôi: “Các bác đến thăm không báo trước, thành ra cả nhà đều bận, không chu đáo được”. Anh Y Mang nói tóm tắt mục đích của chuyến viếng thăm, bà chủ vui vẻ nói: “So với những nhà xung quanh thì nhà em cũng thường thôi, chưa nhiều hơn các nhà khác trong buôn đâu. Ngoài 2 ha cà phê, mỗi năm thu trên 8 tấn nhân, gia đình nuôi thêm 4 con heo nái và khoảng 50 con heo thịt, 9 con bò, 8 con dê, tính ra năm 2009 thu được có hơn 200 triệu.”  Ami Doan – dịch theo tiếng kinh là “mẹ của Doan”, gọi theo tên con; còn tên khai sinh của bà là H’Hương Byă. Nếu không được giới thiệu trước, tôi đã nhầm bà là một phụ nữ Kinh vì khuôn mặt phúc hậu, người to cao, nước da trắng, khác hẳn với đa số người dân bản địa có nước da nâu. Ami Doan cho biết: “Dê và bò không có ở nhà đâu, cho người thuộc diện nghèo nuôi dùm rồi, mình giúp người ta chút cho có thu nhập thôi; còn heo, thỏ và gà thì ngoài vườn. Gà không tính vào kinh tế vì chỉ nuôi để ăn thịt”. Theo chân bà, chúng tôi ra thăm dãy chuồng đang lợp lại vì lâu ngày tôn cũ đã hỏng; trong chuồng ngoài 4 con heo nái còn có 5 con heo thịt, mỗi con nặng khoảng 50kg; bên cạnh chuồng heo, cô gái út đang cho mấy con thỏ ăn. Ami Doan nói thêm: “Mình mới xuất một bầy hai chục con hôm kia, mỗi con nặng hơn 70 kg đấy”. Nhìn dãy chuồng trại khá dài, có cà phê xanh tốt bao quanh và bầy gà đông đúc đang đào bới dưới gốc cây cà phê, tôi thấy vui vui; người dân ở đây đã biết chăn nuôi kết hợp với trồng trọt theo mô hình trang trại nên kinh tế khá là phải. Kinh tế khá, các con được học hành chu đáo nên cách sinh hoạt chẳng khác gì một doanh nhân thành đạt trên thành phố cũng là lẽ đương nhiên. 
“Thu nhập hàng năm của gia đình “chỉ có” 200 triệu thôi!” Câu nói mộc mạc nhưng còn ẩn chứa một điều gì đó chưa bằng lòng với chính mình của ami Doan càng làm tôi ngạc nhiên muốn tìm hiểu xem còn những nhà nào ở đây có cách làm ăn khá hơn gia đình này. Bà chủ nhà giới thiệu ngay nhà ông ama Bôk, người giàu nhất xã. Đến cổng nhà ama Bôk, tôi kinh ngạc trước ngôi biệt thự 2 tầng xây khá bề thế, trong gara có một chiếc xe tải nhỏ. Thấy chúng tôi đến, một cô gái chạy ra mở cổng để xe vào sân và thông báo: Ama đi thành phố Hồ Chí Minh thăm cậu con con trai đang học đại học An Ninh dưới đó rồi. Qua trao đổi với cô con gái đang học trung cấp thư viện, tôi được biết: hai vợ chông người Ê đê này khi mới xây dựng gia đình cũng nghèo lắm, may được nông trừơng cao su Phú Xuân nhận vào làm và giao cho quản lý 37 ha cao su. Nhờ chăm chỉ và biết chi tiêu nên hai vợ chồng tích cóp được một số tiền nho nhỏ với mong ước có được mảnh đất trồng trọt. Năm 1987 ama Bôk dùng tiền tiết kiệm mua được 6 sào rẫy để trồng cà phê, khởi đầu xây dựng cơ nghiệp. Bằng chính sự lao động cần cù, lại biết áp dụng khoa học vào thâm canh, nên mảnh đất ngày càng sinh lợi; đến năm 2000, ông đã có 20 ha cà phê và 15 con bò. Thế là “đất đẻ ra đất, bò sinh ra bò”; kinh tế gia đình ngày một vững, ngoài ngôi nhà 2 đầy đủ tiện nghi xây năm 1998, ông mua thêm xe ô tô tải để chuyên chở hàng hóa cho gia đình và sắm thêm chiếc xe ô tô 9 chỗ vừa để đi đây đó cho tiện – ama nói thế (cô con gái giải thích), vừa giúp đỡ bà con cưới hỏi có phương tiện đi lại. Khu trang trại hình thành, ông xây thêm 07 căn nhà cấp bốn vừa để công nhân ở, vừa làm kho. Ama Bôk trở thành người nông dân làm ăn giỏi của xã, của huyện rồi một vinh dự lớn đến với ông: năm 2000, ông được thay mặt những người nông dân sản xuất giỏi của tỉnh Đắk Lắk đi dự Hội nghị Toàn quốc biểu dương những người tiêu biểu các dân tộc thiểu số tại Hà Nội. Ngẫm lại, nếu ama Bôk không vào làm cho Nông trường cao su Phú Xuân thì làm gì có được ngày hôm nay và xa hơn, đó là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta khi ban hành chính sách tạo việc làm cho đồng bào dân tộc tại chỗ. Từ một điểm tựa ban đầu ấy kết hợp với tài năng, trí tuệ và sức lực của mình; ông đã vươn lên làm giàu, góp phần làm đẹp cho cuộc sống hôm nay. Nét đẹp của các gia đình nơi đây, không phân biệt Kinh - Thượng, Êđê hay H’rê, Lạch… cùng chung tay, góp tiền của giúp đỡ người nghèo, mong cho mọi người xung quanh thoát nghèo. Nét đẹp đó không phải nơi nào cũng có, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay.
Tây nguyên xưa kia được biết đến như một vùng “đất rộng người thưa”, còn hôm nay, tai xã Cuôr Dăng này thì “đất chật, người đông”, cuộc sống không vì thế nãy sinh sự hiềm khích, mà ngược lại họ đang cùng giúp nhau xóa nghèo, vươn lên làm giàu, không phân biệt sắc tộc. Kinh tế phát triển, đời sống văn hóa giáo dục cũng được nâng lên bằng chính những đóng góp tự nguyện của người dân và kêt quả tất yếu, đến năm 2009 đã có 1.508/1.965 hộ được công nhận “Gia đình văn hóa”. Có thành công như hôm nay ở Cuôr Dăng nói riêng và huyện Cư M’gar nói chung là nhờ sự chỉ đạo của Đảng và Chính quyền thông qua những chỉ thị, nghị quyết hợp lý, hợp tình, hợp với nguyện vọng người dân các dân tộc nơi đây nên được mọi tầng lớp tin theo và cùng cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình và từ đó làm nên một vẻ đẹp riêng của một miền quê vùng cao ngày một trù phú.

Tháng 4 năm 2010


2 nhận xét:

  1. Chưa lấy lại được nhưng nhất định sẽ lấy lại được. Nếu không lấy lại được thì xin… chịu kỷ luật! Sổ đỏ của Vườn không như sổ đỏ cá nhân nên không thế chấp để vay vốn hay cầm cố để vay tiền bạc được..
    *************
    ÔNG NÀY DŨNG CẢM. NHƯNG CÓ LẼ CHỊU KỶ LUẬT CHỨ ĐỪNG TỪ CHỨC NHA ÔNG!

    Trả lờiXóa
  2. Hạt Cát ơi, các cụ dạy rồi: "MỒM QUAN, TRÔ TRẺ" thì cứ thế mà suy...!

    Trả lờiXóa

NHẬN XÉT MỚI