Đã lâu không có dịp về thăm huyện M’Đrak, phần vì bận công việc, phần vì đường
sá xa xôi nên nhiều lúc cũng ngại. Quay đi quay lại đã đến ngày kỷ niệm ba mươi
năm đặt chân vào Dak Lak của đoàn giáo sinh tỉnh Thanh Hoá (11 tháng 10 năm
1977 - 11 tháng 10 năm 2007); tôi quyết định “hành hương” về lại miền đất mà lần
đầu tiên tôi đến nhận công tác trên quê hương thứ hai - Tây Nguyên. Rời thành
phố Buôn Ma Thuột, trời lất phất mưa. Mùa mưa Tây Nguyên là vậy, phải chấp nhận
thôi. Sau quãng đường tròn 90 km xuôi theo quốc lộ 26A, hướng về thành phố Nha
Trang, tôi đến trung tâm huyện M’Đrak. Phòng Giáo dục huyện toạ lạc trong ngôi
nhà hai tầng khá bề thế, có khuôn viên rộng rãi thoáng mát. Đón tôi tại phòng làm
việc lại là người đồng nghiệp cũ cùng vào đợt 1977, thầy giáo Lê Cảnh Truật, Phó
trưởng Phòng Giáo dục kiêm Chủ tịch Công đoàn ngành Giáo dục huyện. Những kỷ niệm
ba mươi năm trước ùa về...
I/ M’ĐRAK MỘT THỜI NHƯ THẾ:
… Ngày ấy đoàn giáo sinh Thanh Hoá được phân công về huyện M’Drak gồm mười
chín người, trong đó riêng huyện Nông Cống đã có tới mười người, tám nam, hai nữ;
huyện Hoằng Hoá quê hương của ngài trạng Quỳnh có ba người; huyện Nga Sơn bốn người, huyện Quảng Xương hai người.
Đến đón chúng tôi tại trường Trung học sư phạm (hồi đó còn ở cạnh sân bay Hoà Bình),
ông Lê Văn Phú, Trưởng ban Giáo dục huyện bắt tay từng người đưa lên chiếc xe
khách thuê của Hợp tác xã vận tải M’Đrak lên đón. Cả đoàn giáo sinh được đưa về
trường cấp I-II Krông Zin ở tạm. Đây nguyên là trường Tiểu học thời Nguỵ nên cơ
sở vật chất còn tàm tạm; Ban Giáo dục huyện cũng lấy hai phòng làm nơi ăn ở và
làm việc. Những ngày đầu đến nhận công tác tất cả anh em giáo viên đều ở chung,
cùng ăn với cán bộ Ban Giáo dục. Ngày ngày các thầy cô giáo lếch thếch cuốc bộ đến
các buôn dân tộc người Êđê vận động con em đến tuổi ra lớp học đặt ngay tại buôn.
Nhiều buôn cách xa nơi ở sáu, bảy km nhưng ai cũng vui vì cuộc sống tập thể và
vì con nhà nông lần đầu tiên được làm Thầy, làm Cô… Thời ấy chưa ai có xe đạp,
nhưng hàng tháng, hàng quý vẫn được phân phối phụ tùng xe đạp (tiêu chuẩn mà!).
Cánh thanh niên không màng tới vì không biết lấy cái xăm, cái lốp hay cái xích,
cái đèn xe đạp để làm gì. Qua năm 1978, tình hình căng hơn do bọn Fulrô hoạt động
mạnh, các trường được thành lập thêm nên các thầy cô Giáo cũng phải chia tay
nhau xuống các buôn lập lớp dạy học. Tôi vẫn ở lại trường cũ giảng dạy, mặc dù
phải đi bộ đến lớp cách xa nơi ở gần 5 km.
Cuộc sống cứ bình lặng trôi đi, cái đói lúc đó là căn bệnh thường niên nhưng
từ nhỏ cho đến khi làm thầy giáo, bọn chúng tôi hầu như chưa bao giờ được bữa
no thì đói có là gì. Chỉ tội nghiệp hai cô bạn đồng hương cùng huyện ngày ngày
theo chúng tôi đi dạy đến trưa về măït cứ tái mét vì đói; các cô không dám ăn vặt
những thứ mà người dân trong buôn mang cho như cánh đàn ông. Khó khăn gian khổ
là vậy nhưng chúng tôi vẫn rất vui vẻ bên nhau và đặc biệt cán bộ huyện, Ban giáo
dục và Nhà trường sống với nhau như trong một gia đình, ấm cúng, vui vẻ.
Cuộc sống bỗng nhiên bị xáo trộn một cách đầy bất ngờ. Vào một đêm cuối tháng
ba, khoảng hơn 21 giờ, chúng tôi đang quây quần soạn bài, bỗng giật mình bởi tiếng
nổ chát chúa của đạn M72, rồi sau đó là tiếng M79, AR16 nổ như ngô rang, buôn
Dak cách trung tâm thị trấn M’Đrak khoảng 3km bốc cháy sáng cả góc trời. Tiếng đạn
cối của Công an, Huyện đội nã dồn dập nổ như pháo tết về phía sân bay chặn đường
rút của bọn Fulrô. Chúng tôi chạy ra hè
nhà đứng nhìn về phía lửa cháy mà lòng đau xót, lo lắng vô cùng; vì nơi đó chính là Trường nội trú huyện mới được thành
lập, học sinh còn gửi ở tạm nhà dân, các thầy cô có hai căn nhà gianh vách che
bằng những tấm ghi lát sân bay, vừa làm nơi ăn chốn ở, vừa là nhà ăn cho các em
học sinh. Khoảng gần một tiếng sau, tiếng đạn nổ chỉ còn cầm chừng, chúng tôi
chợt thấy ba bóng người lảo đảo chạy vào sân trường. Cả bọn ùa ra hét ầm lên
khi nhận ra hai thầy và một cô giáo, không guốc dép, bàn chân tóe máu, quần áo
bị rách lỗ chỗ, vừa chạy thoát từ Trường
nội trú về. Cả Ban Giáo dục và cánh giáo viên ở tập thể ôm chầm lấy các thầy cô,
mắt ai cũng rưng rưng. Trong cái rủi có cái may, toàn bộ buôn Dak bị thiêu
ruiï, 21 em học sinh bị thương, nhà Hiệu trưởng, Hiệu phó đều trúng đạn bốc cháy,
tài sản mất sạch; nhưng không ai chết cả. Đau xót nhất khi chứng kiến cảnh một
anh Công an huyện và một Trung uý quân đội bị bọn Fulrô bắn nát người một cách
dã man ngay trước cổng trường; nếu không có hai người ấy thì tính mạng của hơn
hai trăm thầy và trò sẽ ra sao!
Sau trận đó, học sinh nhiều em bỏ chạy về buôn, không dám đến học nữa. Các
thầy cô, các ban ngành trong huyện lại phải đến từng nhà vận động các em đi học,
tìm mọi cách có thể để đưa các em về trường. Thời ấy có một vị lãnh đạo Ty Giáo
dục Dak Lak từng nhấn mạnh: lấy số lượng
làm chất lượng. Chúng ta đưa được các em về trường là thắng lợi. Ngày ấy người
dân còn cực khổ lắm, bữa đói bữa no; nhiều gia đình còn phải ăn khoai mài đào
trong rừng thay cơm. Các em đến trường học được cấp quần áo, chăn màn, giày dép,
sách vở và ngày ba bữa ăn dù cơm còn phải độn thêm bắp, khoai nhưng không bao
giờ bị đói; vậy mà vận động các em đến trường cũng vô cùng cực nhọc.
Đầu tháng 7 năm 1979 UBND huyện M’Đrak có chủ trương thành lập Trường nội
trú tại các xã, vì thế tôi được cử về xã Ea Trang, xã cuối cùng của huyện, giáp
với tỉnh Phú Khánh, để chỉ đạo xây dựng trường kịp khai giảng năm học mới. Cả xã
Ea Trang lúc bấy giờ chỉ có một hộ gia đình người Kinh làm nghề thầy cúng với bốn
khẩu, còn lại là người dân tộc Êđê. Đi suốt chiều dài của xã theo quốc lộ 21
(sau này đổi tên quốc lộ 26A) hơn 30 km
không tìm đâu được đám đất bằng khoảng một hecta để dựng trường; cuối cùng phải
chọn đỉnh một ngọn đồi ngay tại thôn Hai, đối diện với Trạm Kiểm soát Phượng Hoàng
của Công an huyện, bên cạnh quốc lộ 21 để dựng trường. Tôi cùng với anh Chế Đình
Đống - Trung úy quân đội người Nghệ Tĩnh tăng cường về làm Bí thư xã - vận động
nhân dân đốn cột, cắt gianh, dựng được 8 phòng học, nhà kho, nhà ăn, nhà ở cho
học sinh. Tuy nhà gianh vách nứa nhưng cao ráo, thoáng mát không thua kém bất kỳ
ngôi nhà nào ở quê nghèo xứ Thanh tôi. Ngày khai trường, Ông Y Din - Chủ tịch
huyện và ông Trưởng Ban Giáo dục Lê Văn Phú, cứ tấm tắc khen mãi. Có lẽ tôi “mát
tay” làm phong trào nên bàn giao công trình xong, các ông lại điều tôi về Trường
nội trú xã Krông Zin, một trường còn xây dựng dang dở mà vẫn phải khai giảng…
Có lẽ tại cái số xây dựng xong cơ sở vật chất, tôi được ở lại trường phụ trách
lao động. Thời ấy tiêu chuẩn học sinh nội trú tương đối cao, mỗi em hàng tháng được
cấp 15 kg lương thực, quần áo, chăn màn và tiền tiêu vặt, nhưng nhiều em vẫn bỏ
học không chịu đến trường. Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, lương thực rất
khan hiếm, nhiều nơi phải cấp lương thực bằng đậu xanh, hạt mạch thay thế. Vì vậy
huyện tổ chức khai hoang trồng khoai mỳ, học sinh nội trú cũng được điều động đi
khai hoang. Trường nội trú Krông Zin được phân công cuốc đất trên một quả đồi
phía sau trạm kiểm soát Khánh Dương. Buổi sáng hôm ấy, tôi cùng các em học sinh
mải mê cuốc đất đến gần trưa, em Y Đoan lại bên tôi nói: Thầy nghỉ lại uống nước, để em làm cho! Tôi đưa cuốc cho Y Đoan và đi
lại bên đường quốc lộ 21 để uống nước. Đi chưa được năm chục mét, bỗng tôi nghe
một tiếng nổ lớn, giật mình quay lại; ngay chỗ tôi đứng cuốc lúc nãy, một cột
khói đen bốc lên, bảy em học sinh đang quằn quại trên mặt đất. Tôi lao lại chỗ
Y Đoan, em nằm bất tỉnh; mặt xạm đen vì khói thuốc; bụng, tay máu phun ra thành
dòng. Cô Nguyễn Thị Hồng chạy lại cởi khăn đưa cho tôi buộc lại vết thương cho
Y Đoan. Các thầy cô và nhân viên y tế của trường xúm lại băng bó cho các em bị
thương. Có em hoảng quá vừa chạy vừa khóc, máu chảy thành dòng trên mặt đất. Các thầy phải chạy theo giữ lại để băng bó. Khi
xe đưa các em lên viện cấp cứu rồi, tôi lại chỗ Y Đoan nằm thấy lưỡi cuốc con gà
Trung Quốc bị xé nát, mặt đất bị khoét một lỗ lớn như chíêc mẹt. Vô tình tôi đã
để Y Đoan gánh thay trọn vẹn một quả mìn. Cũng may, nhờ cấp cứu kịp thời tất cả
các em chỉ bị thương, không ai chết cả. Riêng Y Đoan nhờ lưỡi cuốc chắn mãnh đạn
nên chỉ bị thương nặng. Vậy là để những người học trò bé nhỏ ở huyện M’Đrak đến
được với cái chữ, không những thầy cô giáo mà cả học sinh đã phải đánh đổi bằng
chính xương máu của mình.
Vì công việc của tổ chức giao, tháng 8 năm 1983, tôi đi học rồi chuyển công
tác, chuyển ngành về trên thành phố Buôn Ma Thuột, không còn làm nghề dạy học nữa, nhưng những kỷ niệm đẹp về mảnh đất này
còn in đậm trong tôi.
Sau ba mươi năm trở lại, 19 giáo sinh đoàn Thanh Hoá vào huyện M’đrăk năm ấy
giờ đây còn lại không nhiều. Người về cõi vĩnh hằng khi tuổi xuân chưa tròn 30
như Đỗ Văn Loan nguyên Phó hiệu trưởng trường PTTH Việt Xô. Người bị vật chất cám
dỗ, rơi vào vòng lao tù. Người vì yêu cầu của tổ chức phải chuyển công tác về các
địa phương khác. Giờ đây số còn lại chỉ có 6 người. Trong sáu người ấy, người đã
và đang là Phó chủ tịch Huyện như Vũ Hữu Nhân và Lê Đình Điền; người làm Hiệu
trưởng các trường trọng điểm của Huyện như Lê Ngọc Khu, Nguyễn Văn Tuấn; người
tiếp tục giữ các trọng khác của ngành giáo dục như Lê Cảnh Truật, Nguyễn Văn Tường….
Dù trên cương vị công tác nào những người giáo sinh năm ấy vẫn hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ của mình, xứng danh người con xứ Thanh.
Lần này về huyện bên cạnh việc thăm lại vùng đất khi xưa từng công tác, giúp
tôi trưởng thành, tôi còn có nhiệm vụ Tổng biên tập giao cho là tìm hiểu và viết
về mô hình Trường Nội trú dân nuôi mà
huyện M’Đrak hiện nay đang thực hiện. Khi biết ý định của tôi, thầy Lê Cảnh Truật
vui vẻ nói: Vì điều kiện thực tế, hai năm học vừa qua ngành Giáo dục huyện đang
thực hiện mô hình Trường nội trú dân nuôi.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Dak Lak, mỗi huyện có một trường nội trú dành riêng
cho con em các dân tộc ít người theo học. Tuy nhiên do biên chế, trường chỉ tiếp
nhận một lượng học sinh nhất định, vì thế còn một số học sinh đang học tại trường
THCS nhà ở xa trường, không thể hàng ngày đi học và về nhà nên huyện cũng như
ngành đồng ý với chủ trương xây dựng mô hình Trường nội trú dân nuôi. Hiểu một cách nôm na là học sinh đến ăn ở
tại trường, cuối tuần hay cuối tháng các em mới tranh thủ về nhà lấy lương thực,
hôm sau lại lên học. Việc ăn ở của các em do gia đình lo liệu hoàn toàn. Hiện
nay huyện M’Đrak đang có ba trường thực hiện mô hình này.
- Nếu người dân chấp nhận như vậy thì quý hoá quá còn gì. Ngày trước ta đi
nói rát cổ bỏng họng, vận động cha mẹ các
em cho con đi học, được ăn ở đàng hoàng mà ta lên cầu thang trước các em trốn
xuống cầu thang sau, bắt học trò đi học như
Nguỵ bắt quân dịch.
- Nhưng thực hiện mô hình này cũng đang là vấn đề gian nan lắm! Thầy Lê Cảnh
Truật nói thêm.
II/ THỰC TRẠNG Ở MỘT TRƯỜNG NỘI TRÚ DÂN NUÔI:
Để xem thử khó khăn đó như thế nào, tôi đề nghị thầy Lê Cảnh Truật đưa đến Trường nội trú dân nuôi đông học sinh nhất. Thầy vui vẻ nhận lời. Mặc dù trời mưa tầm
tã, hai chúng tôi vẫn quyết định đi xe máy và xác định sẽ… ướt! Đường về Trường
THCS Phan Bội Châu thuộc xã Ea Trang, dễ đi vì đó là đường quốc lộ 26A, con đường
huyết mạch nối khu vực Tây Nguyên với thành phố Nha Trang. Sau quãng đường hơn
20km uốn lượn qua các đèo dốc quanh co, xe dừng lại trước căn nhà cấp bốn, nước
vôi còn mới, nền xi măng, mái lợp tôn lạnh. Thấy chúng tôi vào, các cửa nhà đều
bật mở, các em học sinh trong bảy phòng ở ùa ra
nhìn chúng tôi. Trong các phòng ở, mỗi phòng xếp bốn giường tầng. Hai bên
đầu hồi nhà và toàn bộ phía sau khu nhà còn ba dãy lều lụp xụp, chạy dài, mái lợp
nham nhở đoạn bằng cỏ gianh, đoạn bằng vải bạt, đoạn bằng tôn, có đoạn chỉ là
những tấm nilông che phủ nhưng tất cả giống nhau ở độ cao không quá 1,5m, xung
quang trống thiên, xoong nồi bày la liệt, chiếc nào chiếc ấy chỉ to bằng cái tô
canh. Như đoán được sự ngạc nhiên của tôi, thầy Lê Cảnh Truật bùi ngùi nói: Đây
là phòng ở mới được xây từ ngân sách địa
phương hỗ trợ một phần cho các em đang theo học tại Trường nội trú dân nuôi. Còn các túp lều dựng xung quanh đây là bếp
mà cha, mẹ các em tự làm cho con mình có chỗ nấu ăn. Tất cả còn tạm bợ lắm. Nhưng
đây là những em có may mắn, chứ nhiều em còn phải ở trong những chiếc chòi làm
tạm chỉ che nắng chứ không che được mưa. Ta về trường chính sẽ thấy.
Hai chúng tôi đi theo quốc lộ 26A một đoạn nữa rồi rẽ vào con đường bê tông
mới đổ, hai trụ cổng xây còn dang dở, chắc do mưa nhiều, không làm được. Hết dốc,
sân trường hiện ra trong sự mượt mà của tán phượng, tán bàng cao chót vót; ngôi
trường hai tầng màu sơn hồng hồng còn tươi nguyên, hai dãy nhà xây cấp bốn bên
cạnh tạo thành hình chữ U bao lấy chiếc sân không được rộng lắm. Thế là tôi lại
trở lại đúng ngôi trường Dân tộc nội trú xã Ea Trang. Sau 28 năm đi xa, mọi sự
thay đổi đến ngỡ ngàng. Qua màn mưa dày đặc,
tôi vẫn thấy dãy núi phía tây, cây keo tai tượng đã mọc cao vút. Năm 1979, khi
tôi về đây dựng trường, buổi sáng thỉnh thoảng từng đôi mang rủ nhau ra nô đùa
trên các triền núi làm tro bụi bay mù mịt; chiều về, từng đàn nai năm, sáu con
nghênh ngang lang thang trên triền đồi đã bị đốt cháy trụi, trơ mặt đất đầy tro
than đen sì; bọn chúng ăn tro và điềm nhiên nhìn xuống, không sợ sệt gì.
Đón chúng tôi ngay chân cầu thang đưa lên phòng làm việc là một thanh niên
còn trẻ, cao, hơi gầy, tuổi độ ngoài ba chục. Qua giới thiệu của thầy Phó phòng
tôi biết đó là thầy Nguyễn Mạnh Điệp, Hiệu trưởng nhà trường. Chúng tôi được mời
lên phòng Hiệu trưởng; đó là một phòng học được ngăn đôi, ngoài bộ bàn ghế tiếp
khách, dàn vi tính và bàn làm việc, chỉ có một cái tủ hồ sơ. Theo báo cáo của
Hiệu trưởng, năm học 2007-2008 trường THCS Phan Bội Châu có 10 lớp với 412 em học
sinh theo học, gồm bảy dân tộc khác nhau và không có em học sinh người Kinh nào.
Trong số học sinh đang theo học tại trường có 152 học sinh là con em đồng bào các
dân tộc ít người phía Bắc di dân tự do vào làm ăn sinh sống ở trong rừng sâu cách
trường trên 20 km, cá biệt có em ở xa trường gần 60 km. Cha mẹ các em mong muốn
con em mình được học chữ để sau này sống có ích cho xã hội nên 3 năm học gần đây
đã mang con ra xin nhà trường cho được làm nhà ở lại trường; cuối tuần các em về
nhà lấy lương thực, thực phẩm, đầu tuần ra học; có em ở xa quá thì hàng tuần
cha mẹ mang ra cho. Nhìn các em sinh hoạt hàng ngày hai bữa ăn chỉ có cơm với bột
canh, nước mắm; ít khi có được con cá khô; thương lắm nhưng không biết làm sao
giúp được.
- Nơi ở của các em được bố trí như thế nào?
- Cực lắm anh ạ! - Thầy Hiệu trưởng giọng bùi ngùi trả lời tôi mà như có gì
đó làm giọng nghèn nghẹn - Hiện nay trường mới có được bảy phòng ở cho các em,
cố lắm chỉ thu xếp có chỗ ở cho 70 em, số còn lại phải tự túc nơi ở. Nói chính
xác hơn là bố mẹ các em phải tự vào rừng chặt cây về dựng cho con em mình một túp
lều bằng tất cả những thứ gì có thể kiếm được. Nhà khá giả thì mua vài tấm tôn,
nhà nghèo thì cắt tranh hoặc mua vài mét ni lông căng lên che mưa nắng để các
em ăn ngủ qua ngày, tội lắm!
- Quản lý các em ở lại trường như thế này bằng cách nào?
- Ban ngày giao cho giáo viên chủ nhiệm, ban đêm các thầy cô phân công nhau
trực đôn đốc, quản lý học sinh. Toàn trường có 15 giáo viên, kể cả Ban Giám hiệu,
phải chia nhau ra mà trực, nhiều hôm nửa
đêm có học sinh đau, ba bốn thầy cô lại phải thức trắng đưa các em về bệnh viện
huyện cấp cứu cách xa hơn 20km, toàn đường đèo dốc như anh thấy đó. Cực lắm.
-Chế độ cho các thầy cô giảng dạy ở đây như thế này được thực
hiện như thế nào?
- Chưa có chế độ gì cả - Thầy Lê Cảnh Truật trả lời - Hai năm học trước chưa
có công văn hướng dẫn nên ngành không có kinh phí gì để hỗ trợ thêm cho các thầy
cô làm công tác quản lý học sinh ở nội trú như thế này. Tất cả các giáo viên công
tác tại các trường có học sinh nội trú dân
nuôi tham gia quản lý học sinh được xem như đó là trách nhiệm, nghĩa vụ chứ
không có phụ cấp như các trường nội trú chuyên biệt. Đây là một sự bất cập mà
Phòng đã đề nghị nhưng đến năm nay UBND tỉnh mới ban hành quyết định 25 cho phép
giáo viên quản lý học sinh nội trú dân nuôi
được giảm ½ số tiết phải đảm nhiệm hàng tuần. Tuy muộn nhưng nó cũng kịp thời động
viên anh chị em giáo viên đang công tác ở những vùng đặc biệt khó khăn như thế
này. Hiện nay trường còn thiếu giáo viên, nhiều thầy cô phải đảm nhận gần ba chục
tiết trên tuần, riêng dạy và soạn giáo án đã không còn thời gian nghỉ, chưa kể đêm
đêm phải xuống với học sinh, chỉ bảo thêm cho các em. Hơn 150 em ở nội trú mà
chưa có nhân viên y tế chăm sóc sức khoẻ cho các em, tất cả đều đè nặng lên vai
người thầy giáo. Biết là thiệt cho các thầy cô lắm nhưng điều kiện như vậy thì
làm sao được.
Quả thật, tôi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, theo Luật Lao động thì
các cán bộ quản lý ở đây làm sai, chưa đúng với quy định; nhưng về tình thì phải
chấp nhận, tất cả vì học sinh thân yêu mà! Làm nghề giáo, dạy
vùng sâu, vùng xa như thế này đúng là “thiệt đơn thiệt kép”. Điều kiện sinh hoạt
khó khăn, công việc gánh vác lại nặng nề hơn mà không có thù lao gì. Chỉ riêng
so với các đồng nghiệp dạy trường nội trú chuyên biệt, được ở ngay tại trung tâm
huyện, sinh hoạt đầy đủ tiện nghi, phụ cấp
về quản lý học sinh mỗi tháng được nhận thêm 70% lương. Còn các thầy cô ở
trường THCS Phan Bội Châu này, trước núi, sau núi, chỉ có một con đường chạy
ngang qua, muốn mua sắm, hay kiếm đồ ăn tươi lại phải về trên thị trấn huyện cách
xa hơn 20km. Ngôi trường nằm cheo leo trên đỉnh đồi, hai dòng khe nhỏ chảy hai
bên sườn đồi vô tình tạo thành hai con hào tự nhiên tách biệt với dân. Đau ốm,
bệnh tật không may mắc phải là nỗi cực cho người khoẻ. Thế nhưng tất cả các thầy
cô cũng như cán bộ quản lý ở đây chịu khổ mãi thành “quen” nên nhìn ai cũng tươi
vui, phấn khởi. Có lẽ sự ham học của các em học sinh làø liều thuốc tinh thần tốt
nhất giúp các thầy cô chấp nhận với cuộc sống nơi đây.
Tôi đề nghị thầy Hiệu trưởng dẫn đi thăm khu nội trú
của học sinh. Trời vẫn lất phất mưa, chúng tôi phải bước vội qua phía dãy nhà cấp
bốn cho khỏi ướt. Trong phòng đầu tiên, có hai chiếc giường một kê ở hai góc, còn
lại trên nền nhà trải 8 chiếc chiếu một liền nhau, phía giáp bờ tường, trên mỗi
chiếc chiếu đều có một chiếc chăn đơn và một cái màn được gấp rất khéo. Hai em
học sinh nữ mặc trang phục người H’ Mông, lưng dựa vào tường, kê sách lên đùi mải
mê viết, không biết chúng tôi đến. Nhìn những cô bé ham mê học tập trong hoàn cảnh
khó khăn như thế này lòng tôi cảm thấy như có lỗi với các em.
Như đoán được suy nghĩ của tôi, thầy Nguyễn Mạnh Điệp
giải thích thêm: Để các em có được chỗ ăn ngủ thế này cũng quý lắm rồi. Nhà trường
phải tính toán chi li, các thầy cô phải chấp nhận sinh hoạt chật chội để dành
cho các em. Chúng tôi biết các em chỉ có một chiếc chiếu trải trên nền xi măng
như thế này chắc chắn là lạnh lắm. Biết làm sao được. Nhưng so với các em ở ngoài
kia thì…
Thầy Hiệu trưởng nghẹn lời, không nói tiếp được. Tôi chợt nghĩ: ngoài mấy
tiếng ngồi trên lớp học, thời gian còn lại, các em phải nằm hoặc ngồi trên nền
xi măng lạnh giá như thế này để học, để viết, để ngủ ư? Sức của các cô bé, cậu
bé tuổi thiếu nhi làm sao có thể trụ nổi suốt chín tháng theo học? Ở ngoài kia
người ta đang hô hào hướng dẫn học sinh ngồi bàn đúng tiêu chuẩn, ngồi đúng tư
thế để chống các loại bệnh tật. Còn ở đây…!
Tôi đi theo thầy Hiệu trưởng ra phía sau dãy nhà, bất chợt hiện ra trước mắt
tôi ba dãy lều dựng sát nhau, cái lợp bằng tôn, cái lợp bằng cỏ gianh, cái được
phủ bằng cả tấm bạt lớn… che xung quanh cũng chẳng cái nào giống cái nào, cái được
che bằng những thanh nứa đập dập, cái được kéo bằng vải bạt từ nóc xuống tận đất,
cái được che bằng cỏ gianh. Bên trong những túp lều cao không quá mét rưỡi, rộng
khoảng ba mét được lát tre đập dập, gác lên trên hai cây gỗ tròn dùng vừa làm
giường, vừa làm bàn học cho các em. Xung quanh các chòi ấy là những vũng sình lầy,
nước đọng. Một số em học sinh thấy tôi lom khom đi vào, đang ngồi học bài, vội
nhảy xuồng đất cất tiếng chào.
Mang tâm trạng không vui khi phải chứng kiến cảnh học sinh ăn ở trong những
túp lều tạm bợ, ngồi học không bàn, không ghế tới trao đổi với Đảng uỷ và Uỷ
ban nhân dân xã Ea Trang, ông Y Bhiêm - Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ xã - cho
biết thêm: Xã cũng biết các em ăn ở cực lắm, đã đề nghị lên cấp trên nhiều rồi.
Như anh thấy đấy, đây là xã nghèo của huyện, dân cư ở rãi rác khắp nơi, có thôn
muốn xuống thăm phải đi ra thị trấn huyện, qua 4 xã bạn mới đến được. Điều kiện
chung khó khăn lắm, chỉ biết trông chờ cấp trên thôi!
Tôi hỏi thêm thầy Lê Cảnh Truật: Chẳng lẽ lãnh đạo phòng Giáo dục đành bó
tay chấp nhận để học sinh ăn học mãi như thế này ư? Phải tìm ra biện pháp gì chứ.
-Ngành cũng đã đề xuất với lãnh đạo cấp trên hai phương
án: Một là cấp trên hỗ trợ kinh phí xây dựng đủ phòng ở cho học sinh, trong các
phòng ở ấy trang bị thêm cho các em có phương tiện sinh hoạt tối thiểu; hai là
cho thành lập thêm một số trường THCS ghép với tiểu học, để các em có thể học lớp
sáu, lớp bảy gần nhà, thu hút thêm học sinh; thời gian sau đủ học sinh, ta tách
trưòng THCS ra riêng. Nếu thực hiện phương án hai sẽ khắc phục cơ bản tình hình
học sinh phải ở lại nội trú dân nuôi như hiện nay, nhưng khó khăn là phải tăng
biên chế giáo viên, đặc biệt là giáo viên THCS cho các trường, đây là điều mà
chính quyền địa phương cấp huyện không thể tự quyết được.
III/ ĐÔI ĐIỀU TRĂN TRỞ:
Tận mắt nhìn thấy cảnh các em ngồi học trong những
chiếc lều đơn sơ, gió lùa như vào nhà trống, trên đình màn đôi chỗ các em căng
thêm tấm ni lông chống dột, lòng cảm thương vô cùng. Qua trao đổi với một số em
đang theo học nội trú dân nuôi ở đây,
các em đều có một ao ước chung là học cho biết chữ để sau này có việc làm, khỏi
khổ như bố mẹ. Có lẽ gia đình các em, những hộ nông dân nghèo thuộc các dân tộc
ít người phía Bắc di cư tự do vào đây tìm kế sinh nhai, gia đình nào cũng đông
con cái, nhiều em là con thứ bảy, thứ tám trong những gia đình chín, mười người
con. Tuy con cái đông là vậy các ông bố bà mẹ ít học ấy vẫn mong muốn con cái mình
dù cực nhọc đến mấy cũng phải học đến nơi đến chốn và hy vọng ngày mai con cái
sẽ thoát nghèo. Chính vì hy vọng vào một tương lai tốt đẹp như thế nên họ chắt
chiu từng đồng, từng hạt gạo, củ khoai để hàng tuần, hàng tháng băng rừng lội
suối vượt cả mấy chục km cõng gạo ra trường cho con ăn học. Người dân đã biết
quý cái chữ, kính trọng thầy cô giáo đó là dấu hiệu của một xã hội văn minh và đó
cũng là truyền thống hiếu học từ xa xưa của người dân nước Việt, không phân biệt
đó là dân tộc nào. Trong điều kiện trăm bề thiếu thốn như thế, các em học sinh dù lớn hay bé vẫn miệt
mài học tập, thấy đáng quý biết chừng nào.
Chia tay với các thầy cô giáo và học sinh trường THCS Phan Bội Châu, lòng tôi
trĩu nặng những băn khoăn trăn trở, xen lẫn lo âu. Nếu khu nội trú của trường
không được khắc phục, bệnh tật sẽ hoành hành như cận thị, vẹo cột sống, sốt rét…
đẩy một lớp người mới của chúng ta vì ham mê học sẽ ra sao? Làm cách gì để khuyến
khích không những các em mà cả gia đình những người nông dân nghèo thuộc đồng bào
dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp phải từ biệt quê hương bản quán, nơi chôn
rau, cắt rốn đi tìm miếng cơm manh áo nơi “đất khách quê người” mà vẫn còng lưng
chịu khổ, chịu cực cho con em mình theo học cái chữ của Đảng, của Bác với mong
muốn đổi đời. Điều đó chứng tỏ người dân đâu chỉ vì cơm áo gạo tiền của cuộc sống
đời thường, mà cái cao hơn, cái cần thiết hơn đối với những hộ nông dân này là
tri thức cho thế hệ con cháu mai sau. Để các em học sinh phải ăn ở trong điều
kiện như hiện nay ở trường THCS Phan Bội Châu theo mô hình trường nội trú dân nuôi là lỗi của chúng ta - những được Đảng và nhân
dân tin tưởng giao cho trọng trách quản lý. Đây mới chỉ là một trường được quan
tâm đầu tư của ngành, chính quyền các cấp mà còn như vậy, không biết các trường
khác, với mô hình này trong huyện cũng như nơi khác sẽ như thế nào? Mong sao
qua trang viết nhỏ này giúp các cấp, các ngành có liên quan thấy được thực tế đang
tồn tại ở trường nội trú dân nuôi mà
tìm biện pháp khắc phục ngay, không để tình trạng này kéo dài.
Mùa mưa năm 2007
Chúc mừng Đắc Lắc quê anh được đăng cai triển lãm tranh áp phích Phần Lan (~_~)
Trả lờiXóaCảm ơn lời chúc của bác BẠCH DƯƠNG nhé!
XóaTranh áp phích quả thật là khó , bởi đối tượng hướng tới của thông tin muốn truyền tải là cộng đồng những người dân có hiểu biết , trình độ văn hóa , xã hội khác nhau...chưa kể những truyền thống của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc ...
Trả lờiXóaVí như áp phích về tham gia giao thông ở thành phố mà mang về các vùng quê , thành phố thị trấn thị xã nhỏ thì phải có sự lựa chọn sao cho phù hợp...hoặc ngược lại , những áp phích có nội dung phù hợp cho trẻ em vùng cao tới trường thì mang về thành phố lớn chắc hiệu quả không như ý ...
Vài nhời lẩm cẩm comment với Bác Hồng Chiến :-)
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
XóaUYNHTRANG góp ý không sai,nhưng cái ní do tại nàm sao mang về Đắc lắc triển nãm thì mình ứ hiểu.
XóaThôi dù sao ,họ - tận Phần Lan-một trong 4 quốc gia có mức sống bậc nhất châu Âu(Na uy-Thụy Điển-Phần lan-Đan mạch) mang tranh đến quê mình triển lãm,là vinh dự rồi.
Chúc mừng Đắc lắc -nơi anh H.C "ngụ cư".
Cảm ơn cả hai bạn nhé!
Xóa