TRUYỀN THUYẾT VỀ SỬ THI M’NÔNG
Từ bao đời nay, đồng bào M’nông còn
lưu truyền trong cộng đồng bon làng mình một kho tàng ót n’drong(sử thi) vô cùng
quý báu. Theo ngôn ngữ M’nông: Ót có nghĩa là hát, kể; n’drong có nghĩa câu
chuyện xa xưa. Ót n’drong được lưu truyền bằng ngôn ngữ truyền miệng thông qua
các cuộc sinh hoạt văn hóa hát kể sử thi giữa nghệ nhân với cộng đồng buôn làng
và giữa ông bà, cha mẹ với con cháu (gọi là gia truyền). Ót n’drong được kể
trong mọi không gian khác nhau: Không gian lễ hội, không gian nhà dài trệt, không
gian chòi rẫy, không gian đi rừng, không gian đánh cá, không gian chăn thả đàn
trâu bò, nghĩa là chỗ nào có không gian thuận lợi là có thể kể ót n’drong.
Nghệ nhân hát kể ót n’drong trong cộng
đồng người M’nông hiện tại không nhiều, nhưng họ có một trí nhớ rất kỳ lạ. Có
nghệ nhân thuộc gần hai trăm câu chuyện sử thi với hàng vạn câu vần ót n’drong.
Họ có thể kể suốt bảy ngày đêm mà vẫn chưa hết một bài sử thi. Điển hình là nghệ
nhân Điểu Klung, Điểu Klưt, Điểu Glôi, Thị Jach, Điểu Xiêng, Điểu M’Piôih, Điểu
N’Jông…
Người M’nông thường truyền tụng câu
ca thể hiện sự yêu thích của mình khi nghe kể ót n’drong:
“Buổi sáng kể chuyện nương rẫy
Buổi chiều kể chuyện
củi nước
Buổi trưa kể chuyện
anh hùng
Buổi tối kể chuyện
Ndu, Tiăng…”
Khi tìm hiểu về nguồn gốc sử thi M’nông,
chúng tôi được các già làng kể cho nghe một truyền thuyết như sau: Xưa kia khi
trời đất mới hình thành, ông Trời cử hai vị thần là Tông Par và Tang Par đi đo
trời đất. Đo đất xong, hai thần trở về trời để đo bầu trời. Hai thần đo bầu trời
suốt bảy ngày đêm mà không hề nghỉ ngơi nên mệt quá vì đói và khát, liền rủ
nhau đi tìm thức ăn và nước uống. Hai thần đang đi thì gặp một vị thần trông
coi ranh giới giữa trời và đất. Vị thần này mời hai thần Tông Par và Tang Par vào
nhà ăn trái cây và uống nước. Với lòng hiếu khách, vị thần này mang ra một đĩa đào
tiên, một bình nước tiên mời thần Tông Par và Tang Par. Nhưng vị thần này lại
mang nhầm bình rượu tiên ra mời. Vì đói và khát, nên hai thần Tông Par và Tang
Par ăn uống ngon lành. Ăn uống xong, hai thần Tông Par và Tang Par ngà ngà say,
liền cùng nhau hát ót n’drong vang khắp bầu trời. Tiếng hát của hai thần ngân
nga trầm bổng nghe du dương như tiếng nhạc, như tiếng cồng, tiếng chiêng làm
cho các vị thần, chim thú trên trời kéo đến nghe rất đông. Kỳ lạ thay, hai vị
thần vừa hát vừa uống rượu tiên thì giọng kể càng hấp dẫn. Vì uống rượu nhiều
quá nên hai thần vừa đi vừa hát, vừa diễn tả những động tác của những nhân vật
trong chuyện. Không ngờ hai thần đi đến bờ rào nơi ranh giới giữa trời và đất,
bất ngờ bước hẫng chân và rơi xuống mặt đất tại vùng núi Gô N’tôk đầu suối Dak
Huych (nay thuộc xã Đak Huych, tỉnh Dak Nông) và trúng ngọn cây krăk gôr (loại cây giống cây si). Nhờ
cây đỡ nên hai thần không hề gì. Nhưng vì say rượu nên hai thần vẫn hát ót
n’drong say sưa. Tiếng hát của hai vị thần vang khắp núi rừng làm cho chim thú
kéo đến vây quanh cây krăk gôr để nghe hát ót n’drong càng ngày càng đông. Tiếng
hát của hai thần vang đến các bon làng của người M’nông, các tộc người M’nông cũng
lũ lượt kéo đến nghe. Tộc người Bu Nong (M’nông Nong) vì ở gần nên đi đến trước.
Họ nghe hai thần Tông Par và Tang Par hát ót n’drong trọn vẹn từ đầu đến cuối các
câu chuyện. Hai thần còn bày cho người Bu Nong cách hát kể ót n’drong và còn tặng
cho họ bức tượng thần biết hát kể ót n’drong. Còn các tộc người M’nông khác đến
sau, như M’nông Preh, Biăt, Gar, Rơ Ông, R’Lâm… đến sau, nên chỉ nghe được vài
câu chuyện cuối của ót n’drong. Vì lúc này hai thần đã tỉnh rượu và đang chuẩn
bị bay về trời. Chính vì vậy mà từ bao đời nay trong cộng đồng người M’nông chỉ
có người Bu Nong (M’nông Nong) là biết hát kể ót n’drong, còn các tộc người khác
rất hiếm người biết hát kể ót n’drong. Ở tộc người Bu Nong không chỉ đàn ông biết
hát kể mà có cả đàn bà, các chàng trai, cô gái được già làng truyền dạy cũng biết
hát kể ót n’drong cho mọi người trong cộng đồng cùng nghe.
Các già làng Bu Nong còn kể rằng:
Trong kho tàng ót n’drong có truyền thuyết “Kể dòng con cháu mẹ Chếp”
nó chính là ót n’drong mẹ đã sinh ra hàng trăm câu chuyện ót n’drong khác. Truyền
thuyết này đã kể lại lịch sử hình thành và phát triển của người M’nông. Từ bà tổ
đầu tiên là bà mẹ Chếp đã sinh ra trăng sao, cây cỏ muôn loài, sau đó mẹ Chếp
sinh ra mẹ Chắp, mẹ Chắp sinh ra mẹ Chau, mẹ Chau sinh ra mẹ Grên, mẹ Grăn. Từ
các bà tổ ấy đã sinh ra 53 dòng họ M’nông khác nhau. Mỗi dòng họ do một bà mẹ đứng
đầu, các con lấy tên của mẹ làm họ. Dòng họ cuối cùng do mẹ Rõng đứng đầu đã
sinh ra người anh hùng Tiăng. Lúc đầu chàng Tiăng sinh ra từ một quả trứng bằng
đá, nên đặt tên là Tiăng con Tiăp. Chàng Tiăng lớn lên thấy không thích hợp với
tên của mình nên đã đầu thai vào 37 bà mẹ khác nhau. Ở mỗi bà mẹ, chàng đều có
anh em ruột thịt và được tặng nhiều vật quý, như: ché thần, kèn thần, khiên thần,
gươm thần, gùi hoa, cồng vàng, cồng bạc, khung dệt bằng bạc… Khi về già, nhớ lại
những kỷ vật quý giá ấy, chàng Tiăng đã cùng anh em, con cháu đi đòi lại những
vật quý ấy, nhưng các bon làng là anh em cùng mẹ khác cha của chàng không trả,
thế là chiến tranh cướp tài sản, cướp vật quý, cướp người đẹp, cướp vùng đất cư
trú diễn ra triền miên. Mỗi cuộc chiến tranh là một câu chuyện ly kỳ, nó nối
chuỗi với nhau thông qua các nhân vật chính, như: Chàng Tiăng, Tang, Yang, Lêng,
Ndu, mẹ Rõng, cha Kông và các vị thần bảo vệ bon làng chàng Tiăng là thần Lết,
thần Mai cùng nhiều nhân vật anh hùng khác, tạo nên hàng trăm câu chuyện nối liền
nhau trong kho tàng ót n’drong, hiếm thấy
ở các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Từ bao đời nay ót n’drong đã được lưu truyền
trong cộng đồng như một báu vật văn hóa không bao giờ phai mờ trong ký ức của
người M’nông.
Vừa qua,trong chương trình dự án “Điều
tra, sưu tầm, biên dịch, bảo quản và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên” (từ
2001-2007) do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam) chủ trì, đã phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên tiến hành điều tra và sưu
tầm được trên 500 tác phẩm sử thi của các dân tộc bản địa Tây Nguyên, trong đó
có trên 200 tác phẩm sử thi M’nông. Trong hội nghị nghiệm thu chương trình dự án
trên, các nhà nghiên cứu folklore đã đánh giá cao kết quả đạt được của chương
trình. Cũng trong hội nghị này, các nhà khoa học đã xếp sử thi M’nông vào loại
sử thi liên hoàn (hay còn gọi là sử thi phổ hệ, sử thi chuỗi). Qua kết quả này
càng làm sáng tỏ những truyền thuyết trên về kho tàng ót n’drong đã và đang tồn
tại trong cộng đồng người M’nông như một báu vật, cần phải gìn giữ và phát huy
trong cuộc sống đương đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI