“BẾP LỬA” – NỒNG ĐƯỢM TÌNH BÀ CHÁU
Nguyễn Việt Bằng, tên khai sinh của nhà thơ Bằng Việt,
sinh năm 1941, ở Thạch Thất, Hà Tây – nay là Hà Nội. Ông viết bài thơ này năm
1963 khi đang học ngành luật ở Liên Xô (cũ). Ông là bạn thân của cặp vợ chồng
nhà thơ tài hoa Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh.
Không hiểu sao khi đọc bài thơ Bếp lửa tôi lại nghĩ
đến bài Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh. Có lẽ cả hai đều là những dòng hồi
tưởng về tuổi ấu thơ. Một bài lấy ánh lửa nồng đượm ấm áp để làm chỗ tựa cho cảm
xúc. Một bài đem tiếng gà buổi trưa cục ta cục tác đang nhảy ổ để xây nên cảm xúc.
Song cả hai đều đưa người đọc xuôi về miền kí ức đẹp đẽ để rồi bật lên tình bà
cháu thân thương yêu kính.
Có người nói rằng khi nhà thơ Bằng Việt học tập ở Liên Xô
nhớ nhà đến quặn thắt con tim, lại đang vào mùa đông, trời đầy tuyết, lòng nhớ
nhung thế là cảm xúc dâng trào. Tác giả viết một mạch, bài thơ hoàn thành rất
nhanh. Nhưng còn băn khoăn về bút danh. Chọn mãi sau được sự góp ý của người bạn
gái người Cuba
cùng học, nhà thơ đã chọn bút danh là Bằng Việt – đảo ngược tên và chữ đệm mà
thành.
Trong lúc tuyết phủ trắng trời ấy còn gì hay hơn và phù hợp
hơn khi có bếp lửa trong lòng. Bếp lửa ấy vừa sưởi ấm khí lạnh của tuyết vừa nối
liền nỗi nhớ quê hương, vừa tô đậm tình bà cháu. Thế nên mở đầu bài thơ hình ảnh
một bếp lửa chờn vờn sương sớm trong hồi tưởng hiện ra. Từ láy chờn vờn
cho người đọc thấy rõ đây chỉ là sự hoài niệm của kí ức thưở ấu thơ hiện ùa về.
Và dòng hồi ức mở ra…
Con người khi xa xứ, lúc cuộc sống vật chất đủ đầy thường
nhớ về quê hương và đặc biệt nhớ về thời khốn khó, cơ cực nhất. Nhà thơ cũng vậy
nhớ thời Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói/ Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi/
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy/ Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu/ Nghĩ lại
đến giờ sống mũi còn cay. Hình ảnh khói hun nhèm mắt được trợ từ chỉ
đi kèm với tính từ nhớ, tác giả không dùng từ chỉ mức độ nhưng nỗi nhớ vẫn
được nhấn mạnh và còn thêm sự nhận xét đánh giá nên tạo ra sự ám ảnh. Hình ảnh
khói hun nhèm mắt đã ám ảnh mãi trong tâm trí của tác giả và nhắc nhở người
đọc nhớ về một thời kì chồng chất nỗi cay cực, khổ sở. Đói đến nỗi mòn mỏi
tưởng không còn sức sống, cực đến nỗi khô rạc cả thân ngựa gầy. Thật thấm thía
nỗi đau thương.
Dòng hồi tưởng tiếp tục nhớ về hồi 9 năm trường kì kháng
chiến, mẹ và cha đi công tác xa không về, ở nhà vào ra chỉ có hai bà cháu, nhưng
tình bà cháu vẫn ấm áp nồng đượm như bếp lửa mỗi ngày cháu cùng bà nhóm lửa.
Đặc biệt âm thanh nôn nao tha thiết của
tiếng chim tu hú nơi đồng xa. Ta tưởng như âm thanh ấy vượt hàng ngàn dặm đất
trời vang mãi tận xứ tuyết xa xôi. Dường như tiếng chim tu hú ấy biết nói, biết
suy nghĩ, biết cảm thông. Tác giả ước ao Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà/ Kêu
chi hoài trên những cánh đồng xa. Tiếng kêu hoài của tu hú càng khiến lòng
người xao động bởi nó được không gian rộng mênh mông của những cánh đồng xa làm
xúc tác tạo nên những xung động trong hiệu ứng thẩm mĩ lan toả vô cùng. Trong đoạn
thơ có 11 câu, mà tác giả để âm thanh tiếng chim tu hú cất lên tới năm lần, chiếm
gần một nửa số câu thơ trong đoạn. Cả đoạn tràn đầy tiếng chim tu hú. Tiếng tu
hú là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Mới chớm nghe đã thấy bâng khuâng, xao xuyến
vừa có cảm giác nhớ nhung, vừa có cảm giác nôn nao xa vời vợi và nuối tiếc. Có
lẽ cặp câu thơ Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng
xa. Là cặp câu thơ hay và gợi cảm nhất của bài thơ này. Tác giả có sự kết hợp
rất độc đáo giữa biện pháp nghệ thuật nhân cách hoá với biện pháp hoà hợp giữa âm
thanh tượng trưng với bề mặt diện tích để tạo ra sự liên tưởng vừa kích hoạt vào cảm giác vừa làm nổi
bật ý muốn biểu hiện. Đây là cách nói gợi nhất về tình bà cháu vừa mênh mang, vừa
sâu thẳm. Thán từ ơi cùng câu hỏi cuối dòng thơ càng làm cho tình bà cháu
quyện lại trong nhớ nhung, chẳng bao giờ nguôi ngoai.
Dòng hồi tưởng tiếp tục đưa người đọc về với những năm
giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi. Tội ác của bọn giặc càng hun đúc ý chí,
nghị lực của con người hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi/ Đỡ đần bà dựng lại túp
lều tranh/ Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu bố còn việc bố/
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên. Cuộc kháng
chiến 9 năm trường kì và cả sau này nữa thắng lợi là nhờ ở những con người kiên
cường, lạc quan luôn nhận lấy phần cực khổ để người ra đi yên lòng phục vụ Tổ
quốc. So với lịch sử họ là nhỏ bé, so với chiến công kì vĩ của dân tộc họ bị
khuất lấp song nếu không có những con người như bà, người hàng xóm và cả cháu bé thì sao làm nên kì tích. Chính tình bà cháu đã
kết lại thành một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin
dai dẳng. Sự đau thương của quê hương,
đất nước đã đọng lại trong cuộc đời bà lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
nhưng bà sẵn nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt
bùi/ Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui/ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Một lần nữa biện pháp điệp ngữ được tác giả sử dụng thành công. Dòng cảm xúc dâng
trào. Từ hành động cụ thể – thực – nhóm bếp, nồi xôi tác giả nâng lên tầng bậc
mới, khái quát hơn – nhóm yêu thương, nhóm dậy những tâm tình. Tình bà – ngọn lửa
– niềm tin mãi mãi bất diệt nên mới kì lạ và thiêng liêng.
Gói lại dòng cảm xúc đang dâng trào là thời gian hiện tại
(giờ cháu đã đi xa). Với không gian sôi động – có ngọn khói trăm tàu, có lửa
trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Dù ở đâu, lúc nào, phương trời nào, hoàn cảnh
nào thì hành động bình dị nhóm bếp lửa của bà vẫn luôn in đậm, khắc sâu trong lòng
tác giả. Và ngọn lửa nồng ấm cháy mãi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI