ÁM ẢNH CHÍ
PHÈO
Tạp chí Chư Yang Sin giới thiệu cùng bạn đọc cảm nhận riêng của em Nguyễn
Thị Minh Nguyệt học sinh lớp 12 Trường THPT chuyên Nguyễn Du sau khi học tác phẩm
Chí Phèo của Nam
Cao.
Bao năm rồi
trong tim người đọc vẫn còn đó, day dứt, ám ảnh không nguôi nhói lòng trước cái
dáng liêu xiêu, ngả nghiêng đổ dài trên con đường làng lênh láng ánh trăng đau
khổ và đói nghèo. Điều gì đã khiến con người ấy, hình ảnh ấy, cuộc đời ấy neo lại
và thôi thúc lòng độc giả đến vậy? Phải chăng đó là đúc kết của những trang đời
đầy trắc trở hay xuất phát từ tấm lòng nhân đạo nhức nhối không yên trước việc
thế nhân mà nhà văn mượn cây bút dồn cả lòng mình và trang viết?
Nói đến Chí
Phèo của Nam Cao, là đứa con sinh sau, đẻ muộn trong trào lưu văn xuôi hiện
thực trước Cách mạng Tháng Tám, điều gì đã khiến những bậc tiền bối đi trước như
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng… phải ngoái đầu nhìn
lại bước chân khập khiễng của gã say Chí Phèo? Đó là bởi Nam Cao đã khám phá ra
sự thật đời sống một cách tinh tế. Ấn tượng khi đọc Chí Phèo là ấn tượng về một
“cái đẹp quằn quại trong nỗi đau tận cùng của con người”. Chí Phèo - con quỷ của
làng Vũ Đại, cái mặt hắn “đen và rất cơng cơng”… từ dùng của
Nam Cao và tôi nghĩ rằng chẳng có từ láy nào thích hợp hơn để miêu tả một kẻ như
hắn. Hắn sống bằng nghề đổ máu: đổ máu của chính mình khi rạch mặt ăn vạ và đổ
máu của người khác khi làm tay sai cho Bá Kiến. Vẻ đẹp của tác phẩm là Nam Cao đã
khám phá ra sự thật đời sống ẩn sau lớp vỏ bọc ngổn ngang, sự thật về xã hội thối
nát mà bọn thống trị lọc đời, lõi nghề, bóc lột đẩy người dân lương thiện vào con
đường tha hóa, đẩy anh Chí hiền lành vào nhà tù. Xã hội đã cướp đi quyền làm người
dù là quyền được làm người nghèo khổ. Ám ảnh về Chí cứ day dứt ta mãi không nguôi,
âm vang đứt ruột của tiếng chửi rất Chí Phèo. Hãy xem Nam Cao viết: “Hắn vừa
đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Còn gì điên rồ hơn
cách chửi của gã say? Hắn thu hẹp dần đối tượng từ xa xôi nhất, không đâu nhất,
chưa đụng tới ai là trời, rồi cà khịa, xúc phạm cứ sát sạt hơn là đời – làng Vũ
Đại – tất cả những ai không chửi nhau với hắn. Nhưng trong cái cách chửi tưởng
chừng vu vơ, mơ hồ, ta bắt gặp logic của một tâm lí tỉnh táo – tỉnh trong cơn
say cùng cực. Đó là kết quả của sự dồn nén trong bao năm ngục tù nên có văn,
có vẻ, có bài bản, xác định đúng đối tượng, mục đích, nguyên nhân.
Tiếng chửi
lạ lùng như sự độc thoại của rượu và lí trí. Hắn hướng về trời như cái cớ để bắt
đầu cho một hành trình gian nan truy cứu tại sao tạo hóa lại nhào nặn, sản sinh
ra một con người mang phận đau, đơn độc, vật vã ê chề đến như vậy. Thế nhưng,
Chí cũng nhận ra: “Trời có của riêng nhà nào?” Rồi hắn chửi đời. Trong số
phận, con người ta cứ dồn cả lỗi cho cuộc đời, cho thiên mệnh. Đời có tất cả, tạo
hóa đã nhào nặn thế nhân nhưng đời nào có thuộc về ai. Và đời mà hắn đang chửi
quy tụ lại cũng chỉ là con số 0 tròn trĩnh. Đó cũng là con đường mòn cũ rích, lối
sống cổ hủ đã tồn tại từ đời này sang đời khác, trói chặt kiếp người. Để khi sảy
chân, ai ai cũng chửi đời mà đâu ngờ rằng mình cũng góp một phần tội lỗi. Trách
trời. Trời xa quá, cao mãi, vời vợi thế. Trách đời. Ôi sao rộng! Chí bất mãn hướng
về nơi chứng thực duy nhất cho việc khai sinh một con người lửng lơ bên vực thẳm
cheo leo – làng Vũ Đại. Sao mà đời ghẻ lạnh, bạc bẽo đến vậy? Tàn nhẫn! Tiếng
chửi khao khát giao tiếp, khao khát được công nhận. Vậy mà đáp trả lại là sự im
hơi lặng tiếng của một xã hội vốn thích đông đúc, bon chen. Họ quay lưng, họ cự
tuyệt, xa lánh Chí. Hắn chửi để cạy miệng thiên hạ nhưng nhận lại chỉ là tiếng
sủa của mấy con chó giữa trưa hè oi ả. Rõ ràng, xã hội còn vô tâm hơn bầy chó.
Chí chỉ còn cách chửi “cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Đó là hệ quả
của bao oán thán, dồn nén, chồng chất, chửi những lương tâm đã “rỉ ra, mòn đi,
mốc lên”, không xứng danh nghĩa con người. Và tất nhiên trong hành trình
truy tìm tội phạm gây nên bi kịch đời mình, Chí trở về với điểm xuất phát ban đầu
“đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này”. Dòng văn đẫm
nước mắt bởi khi nhắc đến đấng sinh thành, ta thường nói bằng cả tấm lòng thành
kính. Vậy mà Chí không biết chúng là ai, hắn dồn cả vào tiếng chửi những uất ức
dành cho những kẻ bất lương đã tàn nhẫn vứt đi giọt máu xót, chà đạp, cướp đoạt
quyền sống của hình hài mà chúng đã sinh ra. Hơn thế, tiếng chửi cực kì thâm sâu
trong móc xích chặt chẽ giữa “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn” với xã
hội phi nhân tính, biết phi nhân mà vẫn để mình thành kẻ phi nhân – cha mẹ như
thế liệu có xứng với thiên chức tạo hóa an bài?
Thế là đối
tượng của tiếng chửi đã định hình rõ rệt xã hội thối nát, bất nhân. Tiếng chửi
là lời lẽ đanh thép của mọt con người đang quằn quại để mà phản ứng với đời. Với
cách dựng chuyện độc đáo, Nam Cao đã rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh
tên quỷ dữ, chẳng nhiều lời, chỉ gợi qua đôi dòng, cái tài của văn nhân là cuốn
bạn đọc theo mạch truyện âm ỉ. Ta khao khát dõi theo bóng người bị đồng loại bỏ
rơi, phớt lờ. Mở đầu là ấn tượng khó phai mờ. Kết thúc là hành động tự kết liễu
đời mình. Việc lặp lại cảnh lò gạch bỏ hoang đã khép lại đời anh Chí nhưng sao
ta vẫn thấy ngờ ngợ đó là dự đoán trước quy luật “tre già măng mọc”. Rồi đây,
ai dám chắc sẽ không xuất hiện những Chí Phèo con hung hăng bạo tàn thậm chí đáng
sợ hơn anh Chí của Nam Cao. Và vật lộn giữa hai miền không gian ấy là những lần
Chí lê bước tới thăm cụ tiên chỉ Bá Kiến. Chí đi tất thảy ba lần. Hai lần đầu,
xin tiền thì bảo toàn sự sống, Chí vẫn tồn tại nhưng với danh nghĩa quỷ dữ mà
thôi. Lần thứ ba, đồng thời là lần quan trọng nhất, được Nam Cao dày công dùng
bút lực “bày binh bố trận”, khéo léo khơi gợi qua hàng loạt chặng đường Chí vô
tình tạt qua. Đây cũng là lần cuối cùng bạn đọc thấy sự hiện diện của quỷ dữ, bởi
lẽ sau giờ khắc ấy, thiên chức con người trong Chí đã trỗi dậy, anh chối từ lớp
bọc quỷ và khao khát hoàn lương, khao khát được mang danh nghĩa “con người”. Ấy
vậy mà, Chí đã ngã trên ngưỡng cửa trở về lương thiện, anh đã gặp cái chết thảm
khốc. Bởi thiên lương là thứ không tồn tại ở xã hội ấy và Bá Kiến chẳng thể hái
chúng như hái sao trên trời để mà dỗ dành con quỷ. Tiến không được, lùi không
xong, đằng sau là vực thẳm, trước là vách núi cheo leo. Đường về cõi hiện sao
xa vời, cao quá Chí với chẳng được mà thân kia nhúng chàm quá đậm... Khóc đi!
Khóc để chứng tỏ mình vẫn còn hồn người, để “giọt châu của loài người” xoa dịu đau
thương. Một sự thật đẹp hơn mọi sự thật mà Nam Cao đã khám phá thành công, đó là
vẻ đẹp tâm hồn, khao khát hoàn lương.
Xã hội vô tâm
hay tình thương chỉ là chóng vánh? Họ không nhận ra, không một ai lưu tâm tới mầm
xanh ý thức ấy...
Cái đẹp nhiều
khi ẩn tàng mà cái giá phải trả cho danh dự, cho tình thương lại quá đắt, để rồi
người ta sẵn sàng chọn cái chết, chấp nhận đánh đổi mạng sống để hướng đến chân
– thiện – mỹ. Đó là cụ Bơ- men nhân hậu, đã không ngại khí hậu lạnh giá, dành
trọn tâm huyết vẽ lá trường xuân kiên cường trên nền gạch. Hành động tưởng chừng
giản đơn ấy đã cứu tương lai của cô gái trẻ Giôn-xi, nhưng tiếc thay, cụ chẳng
còn để ngắm kiệt tác rung động lòng người. Đó là nàng Vũ Nương chẳng thể giãi bày
nỗi oan khiên đành mượn dòng Hoàng Giang gieo mình những mong được chiêu tuyết
tấm lòng trinh bạch trắng trong. Đó là Lão Hạc túng quẫn phải nhờ tới bả chó, tìm
tới cõi chết để bảo toàn danh dự và tài sản cuối đời cho cậu con trai tha hương...
Có những cái chết bế tắc và cũng có những cái chết của sự giải thoát, mở đầu
cho một sự sống khác. Đau thương cùng kiếp nhân vật, Nam Cao quặn lòng dẫn Chí
về cõi chết, anh Chí cũng nguyện lòng nương theo để bảo toàn vẻ đẹp thiên lương.
Để nhân vật phải chết là nét hạn chế trong tư tưởng của các nhà văn hiện thực
phê phán, nhưng chống trả được chăng giữa vòng xoay lịch sử? Chí ra đi nhưng ở
thế giới ấy anh được sống với danh nghĩa con người và chắc hẳn anh sẽ mỉm cười
mãn nguyện và thầm cảm ơn nhà văn bởi anh trong lòng độc giả không chỉ xuất hiện
như con quỷ mà còn là tư cách của một con người.
Vậy nguyên
căn do đâu mà Nam Cao lại để Chí kết liễu đời mình?
Theo logic,
Chí chẳng thể tồn tại và tiếp tục sống bởi rất nhiều nguyên căn. Trước nhất, cái
chết ấy khắc họa rõ nét cho cuộc đấu tranh đến cùng vì hạnh phúc. Bên cạnh đó,
làm sao Chí có thể tha thứ cho chính mình khi tâm hồn phục sinh và cảm giác tội
lỗi cứ ám ảnh tâm trí? Chí đòi lương thiện nhưng “Làm sao để xóa những vết mảnh
chai trên mặt này”? Tự Chí gây ra và tự anh phải trả giá cho hành vi, tội lỗi,
tính cách lưu manh của mình. Chính anh góp phần không nhỏ vào bi kịch cuộc đời
bằng những cuộc say, ăn vạ. Chỉ khi chết đi, những vết sẹo ngang dọc mới vĩnh
viễn được xóa bỏ. Đó là diễn biến đầy logic, hợp lẽ tự nhiên. Vả lại, trên đường
đi của Chí còn hằng hà sa số những thiên la, địa võng của Tư Đạm, Đội Tảo, Bát
Tùng, Năm Thọ... và chúng sẽ du vào nhau, hè cùng nhau với đám “hậu sinh” để tiếp
diễn con đường bế tắc của cuộc đời, lộng hành thay chân Bá Kiến, mà Chí chẳng đủ
mạnh để ác bằng phương thức rạch mặt ăn vạ như trước kia nữa. Chí sẽ sống sao
khi mà công việc khát máu, nhuốm máu đã quen? Ai dám chắc trong vô thức Chí không
làm tổn thương ai khác? Chí sẽ làm gì để sống tiếp? Chí phải đối diện ra sao với
quá khứ tội lỗi ra sao? Ai tha thứ cho những lần bán linh hồn cho quỷ? Hàng loạt
câu hỏi khúc mắc, khó lí giải và Chí Phèo phải trả lời cho trọn bằng cái chết...
Nhắc tới
nguồn động lực lớn lao cứu lấy kiếp quỷ, ta ngỡ đó là bài ca nhân đạo sâu sắc, đó
là ông Bụt, bà Tiên từ bi hiền lành trong truyện cổ, nhưng cây cầu mà Nam cao gây
dựng chẳng phải điều gì to tát, cao siêu mà chỉ là một lòng tốt bình thường, bằng
bát cháo hành giản đơn... Nhưng trước kia, ai cho Chí hay suốt đời anh chỉ biết
rạch mặt ăn vạ, biết dọa nạt cho người ta sợ để có miếng ăn? Vậy mà người đàn bà
xấu xí, dở hơi, dòng giống nhà “mả hủi” ấy lại đến bên chở che, dìu dắt Chí. Nhờ
có thị mà Chí tỉnh ngộ để nghe âm thanh cuộc sống với tiếng gõ mái chèo đuổi cá,
tiếng người đi chợ về, tiếng chim hót,... Quan trọng hơn, Chí tỉnh ngộ để nhận
thấy hoàn cảnh hiện tại “ốm đau, đói rét, đơn độc”... Có lẽ điểm đến đầu tiên của
bát cháo chỉ là liều thuốc tự nhiên - liều thuốc giải cảm. Vậy mà, khi đặt
trong hoàn cảnh của Chí Phèo thì nó là “liều thuốc giải độc”, những chất độc đã
tích tụ bao lâu trong tâm hồn Chí, thế nên anh đã đón nhận theo cách rất riêng.
Thứ nhất, Chí đón nhận trong lúc cô độc. Thứ hai, chưa bao giờ anh nhận được sự
yêu thương của bất kì ai. Thứ ba, nếu để có được thì Chí phải vắt kiệt xương thịt
để đánh đổi, cướp giật. Thế nên, cháo hành đã mang hương vị tình người, một tình
người chân thành, ấm áp đủ sức hóa giải hết cái ác, cái xấu và những mảng tối
trong tâm hồn. Chỉ một bát cháo hành thôi mà đủ đánh đổi lấy những giọt nước mắt
nhân tính, giọt châu của loài người. Tấm lòng Nam Cao nhân hậu quá! Bá Kiến có
xảo quyệt, lọc lõi tới đâu cũng chẳng thể ngờ một người đàn bà “ma chê quỷ hờn”
như thị Nở lại khơi dậy được lương tri, nhen nhóm niềm tin vào tương lai của Chí.
Và lí do đau
đớn nhất để Chí khước từ sự sống khởi nguồn từ đây khi cánh cửa cuộc đời đã vĩnh
viễn khép lại, từ giờ khắc thị Nở ngúng ngoảy, dứt áo ra đi, cây cầu trở về lương
thiện mất rồi. Cầu gãy, phao cũng chối từ, Chí chẳng còn lí do, nguồn động lực
nào sống tiếp. Ai dìu dắt Chí hay Chí lại đơn độc hòa vào rượu và những cơn say
triền miên không hẹn ngày tỉnh giấc?
Chi tiết lưỡi
dao Chí Phèo vung lên cũng là dụng ý nghệ thuật đáng bàn luận. Khi lưỡi dao
vung lên, cuộc sống đã vận động đúng theo quy luật của nó, chứng tích cho những
lần bán linh hồn cho quỷ. Lưỡi dao đã chọn đúng điểm rơi, là ý thức manh nha
cho tinh thần phản kháng. Trong khi những nhà văn cùng thời như Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng... chỉ tập trung đi sâu, hướng về miêu tả nỗi khổ cùng cực của con
người, họ chưa nghiệm ra khao khát tự do đang dồn nén, tích tụ thì Nam Cao đã
tiên đoán được điều ấy. Lưỡi dao vung lên là lưỡi dao của cuộc đấu tranh với
tinh thần “con giun xéo mãi cũng quằn” bởi khi phần người phục sinh nó mạnh mẽ đến
không ngờ. Những gì đã vay bằng máu thì phải trả bằng máu, đó là quy luật “ác
giả ác báo” mà kinh thánh từng răn dạy: “Hãy tra gươm vào vỏ, kẻ nào dùng gươm
sẽ phải chết vì gươm”. Tiếp bước những dang dở của Nam Cao, của số phận
Chí Phèo, ta gặp sức phản kháng ấy qua hành động cởi trói cho A Phủ, đồng thời
tự cắt bỏ sợi dây bó buộc đời mình trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
hay hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay xuấtt hiện song hành trong tâm trí anh
Tràng mà Kim Lân gửi gắm qua “Vợ nhặt”.
Những dòng
suy tư trăn trở của Nam Cao đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh những con người
thờ ơ vô cảm đã lạnh nhạt quay lưng, gián tiếp đẩy con người vào bờ cùng sự sống
bởi “Người ta chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ”. Đó
là lời kêu cứu hãy cứu lấy con người, đồng thời là lời tố cáo xã hội phi nhân tính,
khủng hoảng, thối nát với những mâu thuẫn trầm trọng của bè phái, thế lực hắc ám.
Để rồi, từ đó khẳng định sức mạnh hướng thiện, niềm tin vào “sự tất thắng của cái
thiện trước sóng gió cuộc đời’. Tác phẩm quả xứng danh kiệt tác và hình ảnh Chí
Phèo sẽ sống mãi trong lòng độc giả hôm nay cho tới muôn đời sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI