TỔ QUỐC – CON ĐƯỜNG
(Đọc tập thơ Tổ quốc là
con đường bố con mình đang đi
của Nguyễn Duy Xuân)
Mấy năm gần đây, nhà giáo, nhà
thơ Nguyễn Duy Xuân viết đều, viết nhiều, có nhiều thơ đăng báo và có bài được
phổ nhạc. Năm 2013, tập thơ đầu tay của anh Giọt nắng Cao nguyên được xuất bản và giới thiệu rộng
rãi với công chúng. Tiếp nối mạch sáng tạo của mình, sáng ngày 13.3.2016, Nguyễn
Duy Xuân đã chính thức ra mắt với bạn đọc tập thơ Tổ quốc là con đường bố con mình đang đi, (NXB Hội Nhà văn 2016).
Tập thơ có một cấu trúc khá độc
đáo, đó là hình tượng Tổ quốc với cách nhìn khái quát ở hai bài đầu (Việt
Nam – Tổ quốc anh hùng và Tổ quốc) đến những cảm xúc cụ thể hơn ở các
bài tiếp theo như: Buổi chào cờ đặc biệt, Có thể nào quên và Cảm xúc
ngày chiến thắng, cuối cùng là những xúc động và ghi nhận của tác giả về quê
hương đất nước với những vùng đất cụ thể, những thời điểm cụ thể và những con
người thân thương đã gắn bó trong cuộc sống.
Nhan đề của tập thơ được lấy từ
một câu trong bài Tổ quốc, đó là “Tổ quốc là con đường bố con mình đang
đi”. “Con đường … đang đi” là hành trình đời sống hiện tại. Như vậy, tác giả
đã gắn cảm hứng lịch sử về Tổ quốc với cảm hứng đời thường, đời sống hiện tại của
đất nước, của mỗi người chúng ta. Tác giả đã bình dị hóa quan niệm về Tổ quốc.
Tổ quốc không còn là một khái niệm trừu tượng, khô cứng mà đã trở thành hình ảnh
cụ thể, sinh động. Tổ quốc chính là cuộc đời bố con mình đang sống, chúng ta đang
sống, là hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay:
“Biển Đông đang cuồn cuộn sóng
Dập dờn một lũ sài lang
Ngang nhiên xâm chiếm biển đảo
Lòng con cháy lửa căm hờn”.
Ở bài Việt Nam – Tổ quốc anh hùng, tác giả
đã gợi lên lịch sử chiến thắng hào hùng chống bọn xâm lược phương Bắc với niềm
tự hào tha thiết. Anh không đối lập truyền thống với hiện tại mà mà gắn liền
truyền thống với tình hình thời sự của đất nước để chỉ ra một chân lý của lịch
sử:
“Ôi đất nước mấy ngàn năm lịch
sử
Luôn đối mặt với láng giềng say
mộng bá vương
Những bài học của cha ông xưa
chúng vẫn chưa tỉnh ngộ”
Từ đó, tác giả khẳng định niềm
tin vào chiến thắng của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay:
“Và Điện Biên Phủ - Hoàng Sa dâng
trào bão tố
Nhấn chìm mọi lũ xâm lăng”.
Bài thơ Buổi chào cờ đặc biệt
tiếp tục mạch cảm xúc về Tổ quốc trong một hoàn cảnh cụ thể. Ba khổ thơ, mỗi khổ
xen vào một câu trong bài Quốc ca Việt Nam . Truyền thống anh hùng cách mạng
lại được gắn với tình hình Biển Đông hiện nay, với Hoàng Sa, Trường Sa, nơi mà
Trung Quốc đang ngày đêm xâm lấn:
“Ngoài xa khơi biển đảo quê hương
Tàu giặc nghênh ngang
Đường vinh quang xây xác quân
thù…
Chúng em tự hào
Hát vang bài ca Đất Nước”
Tác giả cũng không quên gợi lại
nỗi đau và niềm căm hận về cuộc chiến tranh xâm lược biên giới phía Bắc của bọn
bành trướng Bắc Kinh trong bài Có thể nào quên?:
“Ngày Mười bảy tháng Hai năm Bảy
chín
Hàng vạn đồng bào ngã xuống
Máu chiến sĩ - máu nhân dân
Hòa trong lòng đất
Xanh thắm rừng biên giới hôm
nay”
Bài thơ còn thể hiện một nỗi niềm,
nỗi băn khoăn day dứt “lòng dạ rối bời” bởi sự thật bi hùng của lịch sử chỉ mới
35 năm, sao thế hệ hôm nay lại có thể lãng quên? Tính thời sự của bài thơ chính
là ở điểm này.
Tổ quốc trên hành trình khám phá
của tác giả còn biểu hiện ở những không gian cụ thể, những địa danh mà tác giả đã
gắn bó hoặc đi qua với những kỉ niệm. Tập thơ có đến 25 bài ghi lại những cảm
nhận và xúc động của tác giả về những vùng đất trên quê hương đất nước. Có thể
gọi đó là những “kí ức vụn” (Nguyễn Quang Lập) hay những “nhật kí thơ” về những
vùng quê như các bài: Qua Đèo Ngang, Đêm ở biển, Cầu Hàm Rồng, Thị trấn Krông
Nô, Em - Krông Năng, Đray Sáp, Cát bụi Bình Dương, Với Huế, Ban Mê - ngày ấy, Đắk
Nông ngày trở lại...
Trong tâm hồn tác giả, hình ảnh
miền Trung cứ trở đi trở lại với niềm thương nỗi nhớ. Miền Trung là đất nước,
miền Trung là quê hương anh nhưng cái chính là phần đất nước ấy thường quằn đau
trong thiên tai, trong mưa lũ, làm anh lo lắng, trăn trở, thao thức không nguôi.
Tứ thơ ấy cứ ám ảnh trong nhiều bài thơ: Miền Trung, Miền Trung lại mưa lũ,
Thương nhớ miền Trung, Mưa Tuyên Hóa, Xin đừng bão nữa miền Trung. Anh đã
viết những câu thơ xúc động:
“Xót xa đất mẹ miền Trung
Thiên tai dồn dập đau lòng biết
bao!
Người dân khốn khổ lao đao
Oằn mình chống đỡ lũ vào lụt ra
Trắng trời ngập nước bao la
Khe Mơ vỡ đập, quê nhà tang thương”
(Miền
Trung)
Tập thơ còn có nhiều bài viết về
người thân, viết cho người thân và những kỉ niệm nhớ thương trong cuộc đời. Đó
là kỉ niệm về người mẹ tảo tần, nhân hậu:
“Ôi! Ngày xưa ấy đã xa rồi!
Chỉ còn kỉ niệm ở trong tôi
Tóc mẹ giờ đây phơ phơ bạc
Chiều bên ngõ vắng, ngóng xa xôi”
(Mẹ tôi)
Đó là tình yêu thương, chăm sóc,
vỗ về, buồn vui đối với những đứa con yêu, cháu yêu (Con yêu, Sinh nhật con
gái, Cu Tí, Sunny), là tình cảm đối với người vợ hiền chung thủy:
“Chim bay về núi, tối rồi
Anh ra ngoài ngõ, anh ngồi đợi
em.
Anh ngồi đợi đến trăng lên
Vẫn chưa thấy bóng hình em cuối
làng.
Trăng lên cuối đỉnh sương giăng
Anh ngồi im lặng ngóng em cuối
trời!”
(Đợi)
Tập thơ còn là miền kí ức về cuộc
đời, về quê hương đất nước với những biến chuyển thăng trầm của lịch sử (Kí ức,
Một thời sinh viên, Ban Mê ngày ấy) hay những cảm xúc bất chợt của tác giả
trước những biểu hiện của thiên nhiên và đời sống (Trường em, Buổi sáng trên
cánh đồng, Khuya, Hương cốm, Thiên nhiên
kì diệu…).
Nguyễn Duy Xuân có sở trường với
thể thơ lục bát có lẽ vì nó hợp với nhịp điệu tâm hồn anh: Dung dị, trầm lắng và
mộc mạc, chân thành. Trong tập thơ có hơn một nửa số bài được viết theo thể lục
bát (42 bài) và những bài thơ hay cũng là thơ lục bát như các bài: Kí ức, Ba
mươi năm ấy - bây giờ, Áo tơi của mẹ bây giờ… còn đây!, Đợi, Xin đừng bão nữa
miền Trung… Anh đã viết những câu thơ gợi được xúc động trong lòng người:
“Làng quê lam lũ đói nghèo
Mà nong khẩu hiệu vẫn treo đầy đường:
Quyết tâm xây dựng quê hương…
Quyết tâm… - Ôi nghĩ mà thương
dân mình
Cả đời mơ ước quẩn quanh
Cơm no, áo ấm, chăn lành mà thôi”
(Kí
ức)
Ai đã qua thời sinh viên khó quên
trong đời đều có thể đồng cảm với nhà thơ về những năm tháng khó khăn, thiếu thốn,
thậm chí đói khát nhưng cũng đầy kỉ niệm vui buồn:
“Nhớ về cái thuở sinh viên
Đói ăn, đói mặc, đói tiền mà
vui.
Bánh mì hai nửa bẻ đôi
Chia nhau lát sắn củ khoai đỡ lòng”
(Một thời sinh viên)
Trước đây, chiếc áo tơi gắn với
người dân xứ Nghệ và miền Trung suốt cuộc đời vì ở đây thiên nhiên quá khắc
nghiệt:
“Hôm nay về lại, không ngờ
Áo tơi của mẹ bây giờ… còn đây!
Dáng xưa vẫn nét hao gầy
Chằm từng lá cọ ai may khéo là”
Hình ảnh chiếc áo tơi ám ảnh
trong tâm hồn tác giả vì nó cũng là kỉ niệm về người mẹ nghèo lam lũ, về quê hương
với bao nỗi nhớ thương khắc khoải:
“Đất cằn sỏi đá quê tôi
Nắng mưa gió bão một thời sẻ
chia
Ai như dáng mẹ đang về
Áo tơi đội nắng đường quê thuở
nào”
(Áo tơi của mẹ bây giờ…còn
đây)
Nhìn chung, đọc tập thơ, chúng
ta cảm nhận được một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, dễ rung động trước những sự kiện,
những biến động của đời sống, của đất nước. Đó là một tấm lòng yêu quê hương, yêu
Tổ quốc, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên thiết tha, trong sáng. Âm hưởng chung của
tập thơ là niềm vui, niềm lạc quan yêu đời dù cuộc sống còn nhiều khó khăn và đất
nước còn đứng trước những thử thách cam go.
Thơ Nguyễn
Duy Xuân không ồn ào, không lên giọng sử thi mà chân thực, giản dị và sâu lắng.
Tác giả cũng không sáng tạo được những tứ thơ thật đặc sắc, độc đáo với cảm xúc
thật mãnh liệt, nồng cháy có sức ám ảnh người đọc mà phần nhiều là những tứ thơ
nhỏ, vụn. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, chân thật, trong sáng và thường đơn
nghĩa, ít có những ẩn dụ độc đáo, những hình ảnh biểu tượng, siêu thực tạo ra
những liên tưởng đa chiều, thường thấy trong thơ hiện đại và hậu hiện đại. Thể
thơ cũng nghiêng về truyền thống mà thiếu sự cách tân khi tác giả chủ yếu sử dụng
thể thơ tự do và thơ lục bát.
Sẽ còn nhiều chuyện để bàn về
giá trị của tập thơ nhưng có thể nói Tổ quốc là con đường bố con mình đang đi là một thành công đáng ghi nhận
của Nguyễn Duy Xuân đóng góp vào nền thơ ca đương đại. Chúng ta chào đón sự ra đời
của tập thơ và mong tác giả sẽ có nhiều sáng tác đặc sắc hơn nữa trong thời
gian tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI