YẾU TỐ SIÊU THỰC TRONG BÀI THƠ
ĐÂY THÔN VĨ DẠ CỦA HÀN MẶC TỬ
Những bài thơ hay thường khó phân tích, khó giảng giải, bởi
vì thơ hay “ phải có sự kết hợp giữa cái mơ hồ và cái chính xác” ( Hoàng Ngọc
Hiến), “ Thơ hay là sự lung linh giữa khả giải và bất khả giải”. Bài thơ Đây thôn
Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ( Ngữ văn 11 – THPT) là một trường hợp khá tiêu biểu.
Khi giảng dạy bài thơ này, các thầy cô giáo thường chú ý
phân tích vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên vườn quê thôn Vĩ, từ đó gợi lên tâm trạng
và lòng yêu thiên nhiên, quê hương đất nước của thi nhân. Như thế là chúng ta
quan niệm bài thơ viết bằng bút pháp “ tả cảnh ngụ tình” theo lối truyền thống.
Thực ra, đây là một bài thơ rất hiện đại dù vẫn mang cái dáng vẻ cổ điển. Khi
viết bài thơ này, Hàn Mặc Tử đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc khuynh hướng thơ siêu
thực của văn học Pháp đầu thế kỷ XX. Các nhà thơ siêu thực quan niệm có hai thế
giới: Thế giới hiện thực là thế giới có thể nhìn thấy được, sờ mó được, còn thế
giới siêu thực chỉ có thể cảm thấy trong giấc mơ, trong tiềm thức, ảo giác, mê
sảng. Họ hướng về thế giới vô thức mà họ cho là một lĩnh vực vô hạn đối với sự
sáng tạo nghệ thuật, đề cao ngẫu hứng, chú trọng ghi chép những cái lướt qua trong
đầu.
Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ chứa đầy tâm trạng:
“ Sao anh không về chơi thôn Vĩ - Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên - Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc - Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vườn quê Vĩ Dạ thơ mộng như
một bức tranh với ánh “ nắng mới lên” lại được lọc qua tán lá “ hàng cau” gợi lên
vẻ đẹp trinh nguyên, tươi mới, thanh thoát. Từ “ mướt” gợi độ trơn, độ non tơ óng
chuốt của lá cây và lời trầm trồ ngợi khen “ mướt quá” càng làm cho cảnh sắc
khu vườn tươi tắn như rạng rỡ hẳn lên. Trong khu vườn xanh tươi cây lá ấy xuất
hiện hình ảnh con người “ Lá trúc che ngang mặt chữ điền”( Có người cho rằng “
chữ điền” là chữ thường treo trước cửa nhà ở Huế xưa). Thực chất, đây là nét mặt
người thấp thoáng trong khu vườn, nhưng “ mặt chữ điền” không phải là nét mặt cụ
thể mà là một nét ước lệ. Nét ước lệ ấy lại được “ lá trúc che ngang” tạo nên vẻ
đẹp chấm phá, hài hòa vào bức tranh vườn quê Vĩ Dạ.
Tuy nhiên, bức tranh vườn quê thôn Vĩ ấy không phải là
ngoại cảnh mà là tâm cảnh. Nhà thơ đã trở về thôn Vĩ trong mộng tưởng, trong hoài
niệm nhớ thương da diết. Nhờ thế mà cảnh vật, thiên nhiên thấm đượm tâm trạng,
càng trở nên sinh động hơn, ám ảnh hơn.
Ở khổ thơ thứ hai, cảnh vật được nhìn rộng ra trong không
gian và thời gian nhưng không còn cái sinh động, tươi tắn như ở khổ thơ đầu mà
nỗi buồn đã thấm vào không gian, cảnh vật: “ Gió theo lối gió mây đường mây - Dòng
nước buồn thiu hoa bắp lay - Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về
kịp tối nay”. Những hình ảnh “gió”, “mây”, “ thuyền”, “ bến”, “trăng”, “ hoa” tưởng
là cụ thể nhưng đều là hình ảnh của ấn tượng. Gió mây vốn là biểu tượng của sự
hòa quyện, ở đây lại gợi lên sự chia lìa “ Gió theo lối gió mây đường mây”. Hai
chữ “ gió” đóng khung một hình ảnh, hai chữ “ mây” cũng khép kín vòng, gợi lên
sự hờ hững và chia lìa. Vì vậy, dòng nước “ buồn thiu” và hoa bắp vật vờ lay động
càng gợi nỗi buồn. Đây là nỗi buồn của lòng người khép kín, cô đơn, là dự cảm
chia lìa đôi ngả giữa nhà thơ với cuộc đời, với người trong mộng. Hình ảnh
“thuyền” - “bến” cũng thường gợi sự chờ đợi, hy vọng vào sự gặp gỡ nhưng ở đây,
niềm hy vọng đó thật mỏng manh vì nó được đặt dưới dạng nghi vấn: “ Thuyền ai đậu
bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay”. Cảnh vật mờ ảo dưới ánh trăng
lung linh, huyền diệu và ánh trăng như là ánh sáng của cõi mộng. Sông không còn
là sông nước mà trở thành “ sông trăng” và thuyền biến thành thuyền “ chở trăng”.
Khổ thơ cuối, yếu tố siêu thực được dùng để thể hiện hình
ảnh con người càng tạo ra ấn tượng mờ ảo, mông lung: “ Mơ khách đường xa khách đường
xa - Áo em trắng quá nhìn không ra - Ở đây sương khói mờ nhân ảnh - Ai biết tình
ta có đậm đà”. Có người tìm cách giải thích tường minh rằng “ mơ” ở đây là ai mơ
? và “ khách đường xa” là ai ? Chủ thể hay là đối tượng trữ tình ? Nhưng càng cố
gắng lý giải càng đi vào bế tắc. Chỉ biết rằng, từ “ mơ” đã gợi sự mơ hồ, kết hợp
với cụm từ “ khách đường xa” lặp lại như một điệp khúc càng gợi lên ấn tượng nhạt
nhòa, mờ ảo như đi mãi không bao giờ trở lại. Hình ảnh người con gái cũng mờ ảo
trong sương khói “ Áo em trắng quá nhìn không ra”. “ Áo trắng” ở đây đã biến thành
ảo giác - ảo giác về một hạnh phúc đã trở thành kỷ niệm, trở thành nỗi đau quặn
lòng.
Thơ Hàn Mặc Tử ở giai đoạn cuối đời thường có hai thế giới:
Thế giới “ ở đây” - thế giới tâm hồn nhà thơ và thế giới “ ngoài kia” là thế giới
thực, là cuộc đời. Nhà thơ vừa khao khát hướng ra, níu kéo cái thế giới “ ngoài
kia”, hướng đến cuộc đời và tình yêu, nhưng mặc cảm về những nỗi đau lại đẩy nhà
thơ ra khỏi thế giới cuộc đời ấy. Như thế, “ ở đây” không còn là ngoại cảnh, không
còn là thôn Vĩ nữa mà là thế giới tâm hồn, tâm tưởng của thi nhân. Ở đó, trong
cảnh “ sương khói mờ nhân ảnh”, tất cả đều mờ mịt, luất lấp, mất dạng, “ nhìn
không ra”.
Dạy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, cần chú ý những yếu tố siêu
thực với những câu hỏi tu từ tạo nên vẻ đẹp lung linh, đa nghĩa của bài thơ, tránh
lối phân tích xã hội học dung tục và suy diễn tùy tiện. Cần cho học sinh cảm nhận
được sự giao hòa giữa cảnh sắc thiên nhiên đẹp của một vùng quê nổi tiếng với nỗi
niềm bâng khuâng da diết,một tâm hồn thiết tha yêu thương đồng cảm, gắn bó với
cuộc đời nhưng cũng đầy đau đớn với mặc cảm chia lìa của thi sĩ tài hoa, bạc mệnh
Hàn Mặc Tử.
vẫn chất văn đầy cảm xúc của Thầy.
Trả lờiXóa