Thứ Hai, 20 tháng 8, 2018
Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2018
VÌ SỰ BÌNH YÊN CHO MỘT VÙNG ĐẤT bút ký của HỒNG CHIẾN - CHƯYANGSIN SỐ: 312 - THÁNG 8 NĂM 2018
Trên đường từ thành phố Buôn Ma Thuột về Công an huyện
M’Drắk, Thượng tá Dương Tấn
Bình - Phó trưởng phòng PX 15 nói với tôi: “Công tác ở một huyện có địa hình phức tạp, đường sá
đi lại khó khăn, dân di cư tự do vào nhiều, nhưng cán bộ, chiến sỹ ở đây làm tốt công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội liên tục trong nhiều năm liền. Trưởng công an huyện là cán bộ
có năng lực,
trưởng thành tại chỗ, chắc chắn các nhà văn sẽ có nhiều đề tài để khai thác”. Mới
nghe giới thiệu thôi, tôi đã thấy ấn tượng rồi, bao nhiêu kỷ niệm một thời với
huyện M’Drắk ùa về...
Tháng 11 năm 1977 tôi được phân công về huyện M’Drắk dạy
học, khi đến cây cầu 70, hai bên Quốc lộ 21A (nay đổi tên thành Quốc lộ 26),
xác xe cháy chất đống chạy dài lên tận chân đèo 519. Phía sau những khung sắt
hoen rỉ ấy là rừng già xanh xen cỏ tranh bạt ngàn, trải dài như vô tận. Thời ấy
khoảng 17 giờ, không một chiếc
xe tải, xe khách nào dám lưu thông qua đây vì sợ bọn phản động Fulro phục kích; có hôm mới hơn 16
giờ chúng đã kéo ra chặn đường, xả súng vào xe khách, giết người, cướp của ngay
đầu cầu 70 - nay là ranh giới của hai huyện Ea Kar và M’Drắk. Còn hôm nay, nhà cửa san sát, nhiều ngôi nhà cao tầng đã mọc
lên nhìn như một dãy phố kéo dài theo quốc lộ 26 lên tận đỉnh đèo
519. Cánh đồng mía
xanh thẫm nối nhau trải dài thay thế cho cánh rừng già khi xưa nơi đây. Khung cảnh thay đổi như ngầm giới thiệu với người qua đường về một vùng
đất thanh bình, trù phú.
Xe dừng trước cửa khu nhà làm việc cao tầng,
sỹ quan trực ra tận xe chào đoàn và một
người tầm thước, khuôn mặt nhìn phúc hậu, trên vai mang quân hàm đại tá, tươi cười bước ra
đón đoàn, bắt tay từng người thật chặt. Khi bắt tay nhà thơ Hữu Chỉnh, vị đại tá xuýt xoa: “Bác có mệt không? Đường sá xa xôi, tuổi
cao
như
thế mà vẫn về với các cháu, quý hoá quá”! Nhà thơ Hữu Chỉnh hóm hỉnh trả lời: “Tớ hai năm nữa mới tròn tám mươi, nhờ trời vẫn còn khoẻ cả sức đi
và lực
viết”.
Mọi người cùng cười. Thượng tá Dương Tấn Bình giới thiệu với đoàn: Đại tá Nguyễn
Quang Trung - Trưởng công an huyện M’Drắk!
Trong căn phòng làm việc của Đại tá Trưởng công an huyện
có hai chiếc bàn kê hình chữ T, sáu chiếc ghế tựa
để hai bên vừa đủ cho sáu vị khách. Đại tá nhờ anh em
lấy thêm chiếc ghế nhựa đặt cuối bàn, ngồi tiếp khách chứ không ngồi chiếc ghế
của Trưởng công an huyện kê phía trong; chỉ một cử chỉ nhỏ đó thôi cũng để lại
ấn tượng đậm nét trong lòng những người lần đầu đến tiếp xúc, làm việc; tạo tâm
thế gần gũi, thân quen như người nhà lâu ngày gặp lại. Đại tá Nguyễn Quang
Trung vui vẻ nói: “Đi đường xa mời bác, các cô, chú uống nước nghỉ ngơi một
chút rồi ta lên hội trường làm việc”.
Hội trường trên tầng hai, các cán bộ chủ chốt
của Công an huyện đã tập trung đông đủ đợi đoàn. Nhìn các sỹ quan đứng dậy chào chúng tôi,
đa số còn rất trẻ, nhiều người tuổi đời chưa đến bốn mươi mà sao có nét quen quen như đã
gặp ở đâu rồi,
làm tôi có một chút bối rối, xúc động...
Ngày ấy cách đây tròn 35 năm tôi rời huyện
M’Drắk đi học rồi chuyển công tác qua huyện khác;
khi đi qua đây, chính tại nơi tôi đang ngồi chỉ là một ngôi nhà xây cấp bốn lợp
ngói; còn phía sau có thêm mấy căn nhà gỗ lợp tôn, lợp ngói tạm bợ. Anh Y Pic -
Trưởng công an huyện, anh Nguyễn Văn Hương - Phó công an huyện là những
người cán bộ đầu tiên về nhận nhiệm vụ khi thành lập Công an huyện M’Drắk ngày
30 tháng 8 năm 1977. Sau này tăng cường từ ngoài bắc vào có thêm Trung uý Nguyễn
Văn Huy và Thiếu uý Trần Xuân Tuyến... mấy anh em chơi thân với nhau lắm. Khi ấy
bọn Fulro còn hoạt động mạnh, chúng liều lĩnh tấn công vào trường nội trú M’Drắk,
đốt nhà dân, giết cán bộ... gây nhiều tổn thất. Nhưng với lòng dũng cảm, mưu trí, công an bóc gỡ dần các cơ sở ngầm, phát động
quần chúng vận động những người lạc lối về đầu thú để nhận sự khoan hồng của chính
quyền, cuộc sống nhân dân đi dần vào ổn định, từng bước xoá đói, giảm nghèo...
Đại tá Nguyễn Quang Trung “bật mí” hai bí quyết cơ bản để
Công an huyện M’Drắk nhiều năm liên tục giữ vững danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”.
Một là phát huy tính dân chủ trong cơ quan đơn vị, tạo sự đồng thuận cao độ và
từ đó cán bộ chiến sỹ
tự giác chấp hành nhiệm vụ, khuyến kích được các tài năng phát triển. Cũng từ
dân chủ ta tìm ra nguồn cán bộ đủ tài, đức, uy tín với đồng đội để đề bạt cất nhắc đảm nhiệm các chức
vụ trong cơ quan. Hai là đối với địa bàn phải có cơ sở mạnh, giúp ta nắm bắt, giải quyết ngay được những vần đề vừa mới nảy
sinh mâu thuẫn từ cơ sở.
Nghe qua “bí quyết” thấy đơn giản quá, hình như cơ quan,
đơn vị nào cũng đang thực hiện;
nhưng để thật sự phát huy được dân chủ trong đội ngũ đảng viên, cán bộ chiến sỹ
trong đơn vị không mấy dễ dàng. Người thủ trưởng đơn vị phải thực sự là thủ
lĩnh, công tâm, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác thì trong mọi công
việc mới phát huy được hết tài năng của anh em, gắn kết anh em thành một tập thể đoàn
kết. Để thực sự là thủ lĩnh, đối với bản thân người chỉ huy phải luôn luôn rèn
luyện, tu dưỡng: cần, kiệm, liêm, chính; thực sự là tấm gương sáng để đồng đội noi theo. Đối với đồng chí, đồng đội phải xem nhau như
anh em trong một nhà, uốn nắn những cái sai, cái chưa được để làm cho đúng, cho
tốt. Đối với công việc phải vui vẻ nhận khi được phân công, cố gắng hoàn thành tốt.
Người chỉ huy thực hiện được như vậy anh em mới kính phục, tôn trọng và đó quả
là một “bí quyết” hay, nhờ vậy hôm nay Công an huyện M’Drak mới có một tập thể
mà đa số cán bộ còn trẻ, trưởng thành tại chỗ để đĩnh đạc đảm nhiệm những chức
vụ trọng yếu trong cơ quan.
Để thực hiện “bí quyết” thứ hai Đại tá Nguyễn Quang Trung
còn cho chúng tôi biết thêm, anh đã chỉ đạo
thành lập các tổ ba người tại các thôn, buôn, tổ dân phố trên địa
bàn huyện nhà để kết hợp với chính quyền giải quyết ngay các mâu thuẫn mới nảy
sinh từ chuyện sinh hoạt hàng ngày, chuyện vợ chồng, làng xóm... đến các mâu
thuẫn lớn hơn như: đất cát, chế độ, chính sách, tín ngưỡng, tôn giáo... Chính nhờ vậy không còn
hiện tượng khiếu kiện đông người, vượt cấp; nhân dân trên địa bàn yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh... Thêm một “bí quyết”
của người lãnh đạo, lấy dân làm gốc, mọi việc được giải quyết ngay từ khi nó mới nảy sinh như ngọn lửa
mới loé lên ta đã dập ngay, không để bùng phát, loang ra thành đám cháy lớn. Quả
thật đây là một ý tưởng hay, thể hiện được bản lĩnh, sự nhạy bén đối với một công việc mà xã hội đánh giá là gai góc, nặng nề,
và hết
sức
phức tạp, khó khăn.
Tôi làm nghề dạy học, rồi chuyển qua làm báo, viết văn và
quản lý văn nghệ; trong thời gian 5 năm ở huyện M’Drắk tuy thời gian không nhiều
với một đời người rồi phải đi xa lâu ngày, nay vì công việc trở lại đây nhìn ai
cũng có nét quen quen. Cuối buổi làm việc, khi anh em đứng
dậy ra về, Đại tá Nguyễn Quang Trung lại làm tôi bất
ngờ khi giới thiệu: “Đại uý, thạc sỹ, Phó trưởng Công an huyện trẻ nhất trong số
anh em lãnh đạo cơ quan là Bạch Văn Cường - con trai của Trưởng Công an huyện mới
nghỉ hưu năm 2016”. Tôi bật kêu lên ngạc nhiên: “Con Đại tá Bạch Văn Trọng?” “Dạ,
đúng rồi chú”. Thảo nào tôi thấy quen quá mà không nhận ra.
Buổi chiều, tôi đến thăm Đại tá Bạch Văn Trọng, anh ở nhà
một mình. Lâu ngày gặp lại có bao nhiêu chuyện
để nhớ về những người đồng đội một thời ở với nhau, người còn
người mất, người nghỉ hưu về quê hay đã chuyển qua tỉnh khác... Tôi hỏi: “Quang
Trung, Trưởng công an huyện con cái nhà ai mà em nhìn quen quen?” “Chú mày còn
nhớ ông lái xe bệnh viện sau đó lái xe cho đội chiếu bóng ở cái xóm cũ nhà chú mày
không?” À ra thế, thảo nào tôi thấy có nét quen như gặp ở đâu. Quang Trung bố lái xe, mẹ không có việc làm, nhà nghèo đông
anh em, học xong phải đi làm kiếm sống và phụ với gia đình, sau trúng tuyển vào
học Trường Trung cấp Công an, rồi phấn đấu, học thêm... Đại tá Bạch
Văn Trọng cho biết: “Trung là người thông minh, xử lý
tình huống táo bạo, với công việc luôn luôn nhận phần khó
khăn nguy hiểm, nhường thuận lợi cho đồng đội. Một người thẳng tính, sống có tình nên
anh em trong cơ quan kính trọng lắm”. Tôi hỏi thêm: “Anh có an tâm khi bàn giao trách nhiệm cho Quang Trung đảm nhận không?”
“Khi làm công tác nhân sự Trung nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của anh em. Chuẩn
bị Đại hội Đảng bộ huyện, mình chủ động xin nghỉ hưu trước tuổi để tổ chức giới thiệu Trung thay và cơ
cấu vào Thường vụ Huyện uỷ.” Câu trả lời của Đại tá Bạch Văn Trọng về người đồng đội thay mình đảm nhiệm chức vụ Trưởng
công
an
huyện M’Drắk thật tế nhị và ngầm khẳng định niềm tin tưởng tuyệt đối vào thế hệ
kế kiếp, gánh trọng trách khi được tổ chức phân công.
Sáng hôm sau, tôi gặp đồng chí Phạm Văn Khoa - Phó ban Tổ
chức Huyện uỷ M’Drắk, đồng chí vui vẻ cho biết: “Khi em làm Kế toán trưởng Công
ty Lương thực có nhận Quang Trung vào làm hợp đồng
bốc vác cho Công ty, tuy là học trò vừa mới rời ghế nhà
trường, sức khoẻ có hạn nhưng chịu khó lắm. Sau này đi học rồi về công tác tại Công an huyện, phấn đấu lên Đội phó, Đội trưởng, Phó rồi
Trưởng công an huyện. Về chuyên môn thì bên em không đánh giá, nhưng về quan hệ, đối nhân xử thế, được
anh em trong cơ quan cũng như ngoài cơ quan đánh giá là người có bản lĩnh, hoà đồng trong cuộc sống đời thường, nhưng với
công
việc
hết sức nghiêm túc, xử lý công việc có lý có tình”.
Có lẽ tuổi thơ của người Đại tá Nguyễn
Quang Trung - Trưởng công an huyện M’Drắk vất
vả, nhưng được tình thương yêu của bạn bè bố mẹ giúp đỡ, cưu mang; khi trưởng
thành được về công tác tại chính vùng đất mà mình đã lớn lên, nên tất cả tâm trí,
hoài bão của cả đời chỉ mong cho mảnh đất nơi đây được bình yên, để mọi người an tâm làm
việc tạo nên cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Và chính ước mơ ấy đã thôi thúc anh hành động một cách quyết liệt trong công việc mà mình từng đảm nhận để
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Mừng cho M’Drắk hôm nay đã “thay da đổi thịt”, phố huyện
có nhiều nhà cao tầng. Người dân các xã vùng sâu, vùng xa như: Cư San, Cư Prao,
Ea Trang M’Doal... đã có điện lưới quốc gia, trường học, trạm xá...
phục vụ cuộc sống, sinh hoạt của đồng bào các dân tộc. Nhiều gia đình mua được ô
tô, máy cày, xe máy và những trang thiết bị đắt tiền khác, cuộc sống vật chất
ngày một được cải thiện và nâng cao, biến vùng đất khô cằn, cỏ tranh bạt ngàn
ngày xưa thành làng quê trù phú, rộn
rã tiếng cười.
Tuy nhiên M’Drắk hôm nay vẫn còn có hộ nghèo,
đường giao thông nhiều vùng chưa thuận
lợi do nhiều xã ở cách xa trung tâm huyện, trong vùng núi cao, suối sâu, đi lại khó khăn, đất đai
khô cằn, khí hậu khắc nghiệt... nhưng con người ở đây sống với nhau có tình
làng, nghĩa xóm dù nơi sinh ở khắp 63 tỉnh thành cả nước. Có được điều đó vì liên tục nhiều năm liền tình hình an ninh chính trị,
trật tự xã hội nơi đây được đảm bảo. Thành tích ấy là công lao của tập thể
đảng bộ, chính quyền các cấp, nhưng vai trò người Công an
là nòng cốt, quyết định. Và trong chiến công chung ấy, không thể
thiếu vai trò người “đứng mũi chịu sào”, Đại tá Nguyễn Quang Trung - Trưởng Công an huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk. Xin được
lấy lời nhận xét của đồng chí Vũ Hữu Nhân - Quyền bí thư Huyện uỷ M’Drắk thay
cho lời kết của bài viết này: “Đại tá Nguyễn Quang Trung, Uỷ viên thường vụ Huyện
uỷ, Trưởng Công an huyện M’Drắk là người cán bộ có năng lực, hoà đồng với mọi người, tận tuỵ với
công việc, có uy tín với đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân. Luôn luôn hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”.
Thứ Ba, 14 tháng 8, 2018
MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ MOTIF “CHIỀU CHIỀU” TRONG CA DAO - lời bình của CAO VĨ NHÁNH - CHƯ YANG SIN SỐ 311 tháng 7 năm 2018
Liên quan đến buổi chiều, ca dao có nhiều cấu trúc phổ
biến như: Chiều chiều, chiều hôm, chiều nay... “Chiều” là khoảng thời gian gần
tối, trước khi bóng hoàng hôn đổ xuống, mang trạng thái tĩnh, hay gợi buồn.
Đây là thời gian rảnh rỗi nhất trong ngày, là thời điểm
của gặp gỡ, đoàn tụ, trở về (con chim dáo dác bay về tổ, thuỷ triều cũng vội vã
về với biển, con người cũng trở về với mái ấm, chỗ dựa của lòng mình là tình
yêu và tình cảm gia đình). Ấy vậy mà vào thời điểm ấy, các chàng trai, cô
gái cô đơn xa cách người thương, còn người phụ nữ lấy chồng xa quê thì bơ vơ
nơi đất khách quê người. Vì vậy khi câu hát của họ vang lên là cả một khoảng trời
nhớ thương nhức buốt, là những khoảng trống vô hình, là những lời tâm sự thiết tha chân
tình.
Đây là lời của cô con gái nhớ mẹ:
Chiều
chiều ra đứng ngõ sau
Trông
về quê mẹ ruột đau chín chiều
Chiều chiều! Nốt nhạc đã dạo đầu cho một môtíp gợi buồn.
Đằng sau nốt nhạc ấy hiện lên chân dung một cô gái với một nỗi buồn khắc khoải.
Nỗi buồn của một cô gái mới về nhà chồng còn lạ lẫm chưa quen, trong lòng cồn cào
bao nỗi nhớ về gia đình,
cha mẹ và những kỷ niệm đẹp. Thế là chiều nào cũng vậy, cô lén ra ngõ sau nhà, nơi
ít người lại qua, ít ai để ý, ở đó cô có thể tránh mọi con mắt dò xét để thả hồn qua những nỗi
nhớ, để “trông về quê mẹ”. Mà có xa xôi gì cho cam. Có khi chỉ cách
có một quãng đồng mà hoá ngàn dặm tít mù, bởi một lẽ thời phong kiến người con
gái có chồng là đóng khung cuộc đời mình ở nhà chồng. Bài ca dao mở ra là “chiều
chiều” khép lại là “chín chiều” như đóng chặt tất cả những con đường mà cô có
thể về với mẹ. Thật xót xa cho thân phận những người phụ nữ thời phong kiến.
Ở một lời ca khác nỗi nhớ đã trở thành nỗi đau tột
cùng khi người con gái chạm vào màn sương của sự mất mát:
Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó
lên mả mẹ ruột đau như dần
Hình ảnh người mẹ đã tan vào khói sương của
hoài niệm. Chỉ còn lại trong trái tim người con gái xa quê một nỗi đau không
bao giờ lành lặn. Nỗi đau ấy lại tiếp tục cộng hưởng ở những thế hệ bạn đọc mai sau.
Còn dưới đây là nỗi nhớ của những người yêu
nhau:
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ
người quân tử khăn điều vắt vai
Chiều chiều đã trở thành điểm hẹn của nỗi nhớ, điệp
khúc của sự chờ đợi. “Người quân tử”- địa chỉ của nỗi nhớ ấy vừa gần gũi vừa xa
xôi, vừa thực vừa mộng, vừa là một chàng trai cụ thể vừa là một chàng trai
trong tâm tưởng, tưởng tượng.
Nhớ câu ân tình:
Chiều chiều mang giỏ hái dâu
Hái dâu không hái hái câu ân tình
Nỗi nhớ và tình yêu của một cô thôn nữ hái dâu
nào đó sao mà thiết tha đằm thắm đến vậy. Có thật chăng khi yêu đầu óc con người ta mụ
mị đi, hay thẫn thờ và hay xao lãng công việc? Lời ca như thủ thỉ thù thì, mộc
mạc, chân chất diễn tả cái tình thật thà sâu nặng của cô gái hái dâu.
Chiều chiều là thời điểm diễn xướng chủ yếu của ca dao
dân ca trữ tình. Câu hò câu hát vang lên trên dòng kinh, cây đa, bến nước,
sân đình… nhiều nhất vào thời điểm ấy. Đây cũng là thời điểm phần tự do về cuộc sống
bên trong con người bộc lộ rõ nhất.
Các chàng trai mạnh dạn bày tỏ tâm tư tình cảm của
mình:
Chiều
chiều ra đứng bờ ao
Nước
kia không khát, khát khao duyên nàng
Hoặc:
Chiều
chiều ra đứng bờ biền
Nhện
giăng tơ đóng cảm phiền thương em.
Rồi các chàng tán tỉnh trêu ghẹo:
Chiều chiều vãn cảnh vườn đào
Hỏi
thăm hoa lý rơi vào tay ai?
Hay:
Chiều chiều vịt lội bàu sen
Để
anh lên xuống làm quen ít ngày
Dường như bao giờ các chàng cũng mạnh dạn hơn, chủ động
hơn trong việc tỏ tình. Nhưng đôi lúc sự táo bạo của “phe tóc dài” cũng đâu thua kém gì
“phái mày râu”.
Chiều
chiều ra đứng cổng làng
Nghe trống bãi tràng em chạy đón anh
Và:
Chiều chiều vịt lội sang sông
Trời
gầm đá nẻ thiếp không bỏ chàng
Qua đó chúng ta thấy tình cảm của các nàng sôi nổi,
quyết liệt và cũng thật đằm thắm dịu dàng đầy nữ tính.
Đa số những câu có môtíp “chiều chiều” người ta sáng
tác ra để gửi gắm nỗi nhớ, niềm thương, nghiêng hẳn về mặt tình cảm. Song bên cạnh
đó cũng có một số câu nghiêng về phần lý trí nhiều hơn, những câu ấy mang đậm
chất triết lý:
Chiều chiều bóng bổ qua cầu
Con ong say vì mật, con bướm sầu vì hoa
Hay:
Chiều chiều âu lại lo âu
Kén
ươm thành nhiễu, đá lâu thành vàng.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều tuân theo một quy luật vận
động nhất định. Và thời gian chính là chiếc chìa khoá vàng giúp người ta nhận
ra giá trị đích thực của con người, của cuộc đời.
Vốn dĩ buổi chiều đã tạo cho người ta cảm giác buồn.
Thế mà ở đây âm “iêu” trong tiếng “chiều” được lặp lại làm cho nỗi buồn như
nhân đôi. Rồi việc sử dụng thanh bằng cũng tạo ra một âm điệu buồn cho lời ca.
“Chiều chiều” chẳng gọi tên một buổi chiều cụ thể nào mà nó là một khái niệm mơ
hồ chung chung cho tất cả những buổi chiều có cùng một tâm trạng một cảm xúc.
Nó gợi lên trong ta một cái gì ngưng đọng, như lặp lại và không có sự thay đổi.
Có phải chính cái âm hưởng dìu dịu nhè nhẹ, buồn buồn của nó mà tác giả dân
gian đã dùng để phổ nhạc cho những bài hát ru:
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Tay
bưng cái rổ tay dìu con thơ
Môtíp bài hát ru phổ biến nhất là “chiều chiều lại nhớ
chiều chiều”. Chữ “chiều” được láy lại nhiều lần, tạo ra một âm điệu đặc biệt dễ
ru ngủ lòng người.
Trong hát ru như có một thế giới đặc biệt. Đó là thế
giới dành cho trẻ, của trẻ. Đó là thế giới của thực vật, nhiều nhất là động vật.
Ở đó cái mà con người làm, loài vật cũng làm:
Chiều chiều con quạ lợp nhà
Con
cu chẻ lạt con gà đưa tranh
Chèo
bẻo nấu cơm nấu canh
Chìa vôi đi chợ mua hành về nêm.
Nhưng hát ru đâu phải chỉ để hát ru, qua lời hát người
ta muốn giãi bày tâm sự thầm kín trong lòng. Hát để trẻ ngủ còn mình thức,
một mình mình đối diện với chính mình:
Chiều chiều bìm bịp giao canh
Trống
chùa đã đánh sao anh chưa về?
Cũng như không gian, thời gian là một phạm trù có ý
nghĩa đặc biệt đối với nhận thức và tình cảm con người. Trong ca dao chúng ta bắt
gặp rất nhiều môtíp về thời gian, nhất là thời gian “chiều chiều”. Đó là một
môtíp chứa đựng rất nhiều thú vị nhưng cũng còn nhiều ẩn số chờ đợi chúng ta tiếp
tục khám phá và tìm hiểu.
Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2018
NHỮNG BIỂU TƯỢNG TRONG TRUYỆN NGẮN “THUỐC” CỦA LỖ TẤN - lời bình của PHẠM MINH TRỊ - CHƯ YANG SIN SỐ 311 tháng 7 năm 2018
Mở đầu thiên
truyện ngắn nổi tiếng này là không gian – thời gian nghệ thuật rất đặc biệt: “Một
đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi, nhưng mặt trời chưa mọc”. Một đêm, lại là một
đêm thu. Tại sao tác giả không lấy không gian - thời gian đêm hè, đêm xuân, đêm
đông? Hẳn đây là một sự ngẫu nhiên, một cảm hứng vô tình của ngọn bút. Ở một
người nào đó có thể xảy ra, vì một khi dâng trào cảm xúc nó cứ mãnh liệt dẫn dụ
người viết, nhiều khi chẳng kịp nghĩ suy gì. Nhưng với một nhà văn như Lỗ Tấn thì
không thể có sự ngẫu nhiên kia xẩy ra. Vậy dứt khoát đây hẳn là một chủ đích
nghệ thuật? Rõ ràng, “đêm thu” là một ẩn dụ, một biểu tượng đầy ẩn ý mà người đọc
cần đọc chậm lại mà nghĩ, mà liên tưởng. Phải chăng “đêm thu” chính là hoàn cảnh
xã hội của Trung Hoa ngày ấy (nửa sau thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20). Lúc
này, xã hội Trung Hoa, vua quan nhà Thanh đứng trước một tình hình mới: Giáp mặt
với những thế lực đế quốc phương Tây. Tất cả chính sách của Trung Hoa đều lộ ra
sự lạc hậu. Vua liên tục nhượng bộ trước những yêu sách rất phi lý của kẻ thù
và thực sự Trung Hoa đã trở thành một đất nước nửa thuộc địa, càng ngày càng lệ
thuộc vào phương Tây. Lỗ Tấn dùng ẩn dụ “đêm thu” để nói rằng chế độ xã hội
đương thời của Trung Hoa đang tàn tạ, suy sụp, dân chúng đang chìm đắm
trong mê muội, lạc hậu, còn người cách mạng hoàn toàn xa lạ với nhân dân. Điều
này biểu hiện rất rõ ở nhân vật vợ chồng lão Hoa. Cả hai vợ chồng đều
tin tưởng tuyệt đối vào việc đi mua một chiếc bánh bao tẩm máu người vừa bị chém
ở pháp trường về cho đứa con trai độc nhất mười đời đang bị bệnh lao. Lão Hoa
đinh ninh đó là toa thuốc “thần” để cứu con trai lão: “…lão còn để hết tinh thần
vào cái gói bánh như nâng niu đứa con của gia đình mười đời độc đinh, không chú ý gì đến
nữa. Lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mạng lại cho con lão, và
lão sung sướng biết bao!”. Còn quần chúng nhân dân lúc này đối với người cách mạng
thì sao? Ta hãy nghe lời nói của họ thì rõ: “Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống
nữa, thế thôi. Lần này, tớ chẳng nước mẹ gì. Đến cái áo nó cởi ra, cũng lão
Nghĩa, cái lão đề lao, mắt đỏ như mắt cá chép ấy, lấy mất. May nhất có thể nói là
ông Hoa nhà này, thứ đến là cụ Ba. Cụ ta được thưởng hai mươi lạng bạc trắng
xoá, một mình bỏ túi tất, chẳng mất cho ai một đồng kẽm!”. Họ mê muội đến vậy,
họ khốn khổ đến thế, nghĩa tình ruột thịt đối với họ không bằng “hai mươi đồng
bạc trắng xoá”. Nhận thức, tư tưởng của họ lúc này quả là “trắng xoá”! Họ coi
người cách mạng là “thằng nhãi con”, khi nhắc đến sự việc người cách mạng Hạ Du
bị chém ngoài pháp trường, họ dửng dưng, thờ ơ, lạnh nhạt như chẳng liên
quan gì đến họ, họ chỉ luyến tiếc không được “may mắn” để lấy một cái gì
có lợi trước mắt cho họ mà thôi. Điều này cũng có nghĩa: Người cách mạng lúc đó chưa
hiểu gì về quần chúng, chưa có mối dây liên hệ mật thiết với quần chúng, còn
quá xa lạ với họ, ngược lại quần chúng chưa có khái niệm gì về người cách mạng,
nguy hại hơn lại hiểu sai hoàn toàn về người cách mạng (cho người cách mạng là
giặc). Lỗ Tấn cảnh tỉnh mọi đối tượng, phải hiểu thấu về nhau, đặc biệt hiểu rõ
bản chất của xã hội mới mong cùng đứng dậy
“gào thét-hò reo”.
Mở đầu thiên truyện là “mùa thu” kết thúc là
“mùa xuân”: “…Những cây dương liễu mới đâm ra được những mầm non bằng nửa hạt gạo”. Buổi sáng mùa xuân này tuy
“trời lạnh lắm” nhưng “mầm non” đã nhú, báo hiệu một tương lai huy hoàng sắp đến,
một xã hội mới sắp sửa thay thế xã hội phong kiến Trung Quốc lúc bấy giờ đang rữa
mục. Chế độ xã hội tốt đẹp ấy là hiện thực, hiển hiện ngay trước mắt, nó đã hiện
hình rõ ràng, cụ thể: “bằng nửa hạt gạo”. Một hình ảnh so sánh kết hợp với ẩn
dụ, vừa rất thực, vừa gần gũi, vừa gợi cảm, độc đáo. Hình ảnh “nửa hạt gạo”
sáng bừng lên trong mắt mọi người, đặc biệt đối với hai bà mẹ khốn khổ đang mang nỗi
đau mất con. Cùng gặp nhau trong buổi sáng mùa xuân, cùng một bãi tha ma, nhưng
được chôn ở hai phía khác nhau bởi hai cái chết khác nhau. Song có lẽ trong họ
đã có cái gì đó xung động ở cõi lòng sâu thẳm. Hình ảnh “nửa hạt
gạo” là tương lai ấm no của họ, là cuộc sống hạnh phúc của họ, nó mới chỉ là hứa hẹn
nhưng đã manh nha, đã hiện hình, đã xuất hiện thực sự trong thực tại mà
họ đang sống, đang cảm thấy một cách rõ
rệt như hạt gạo hằng ngày nuôi sống họ. Và điều đó dứt khoát không thể là mơ tưởng, hão huyền
như vợ chồng lão Hoa trước đây đã từng mơ tưởng về sự thần diệu của chiếc bánh
bao tẩm bằng máu của người cách mạng bị chết chém, mong cứu lấy sinh mệnh của
con trai độc nhất mười đời nhà mình.
Trong truyện ngắn “Thuốc” câu chuyện chủ yếu
diễn ra trong một không gian nhỏ hẹp, quẩn quanh, ẩm thấp, rùng rợn, ma quái, thiếu sinh khí và ánh sáng: Một
quán trà của gia đình lão Hoa, một pháp
trường, một bãi tha ma. Cái không gian nghệ thuật ấy là biểu tượng của
chính xã hội đương thời thu nhỏ. Một xã hội quẩn quanh, u tối, ngu muội và bế tắc.
Con người sống trong không gian ấy cũng trì trệ, dốt nát, họ không phân biệt được
tốt xấu, phải trái, mù quáng đến mức đần độn đáng thương (tố cáo người thân để
lĩnh thưởng, tin ăn bánh bao tẩm máu người chết chém khỏi bệnh, sẵn sàng để bọn
đao phủ lợi dụng, thực hiện cái dã tâm bẩn thỉu, hèn hạ, mất tính người là bán
máu người chết chém). Sống trong một không gian như thế, tất yếu con người phải
như thế, đó là quy luật không thể khác được. Muốn thay đổi phải đổi thay cả
hoàn cảnh thực tế khách quan. Nên lúc này rất cần “thuốc” để trị bệnh. Bệnh nan
y của cả một dân tộc giống nòi.
Cái nhan đề của truyện ngắn này không thể ngắn
hơn được nữa. Chỉ là một từ đơn: Thuốc. Thế thôi, mới đọc đã có cảm giác mạnh mẽ, dứt khoát, bùng nổ ở trong một từ gọn
đanh, chắc như đá tảng. Mức độ cấp thiết đã được tác giả bày tỏ. Lúc này cả dân
tộc Trung Hoa như đang ngồi trong chảo lửa, chìm trong ngu muội, lạc hậu, căn bệnh
“đớn hèn” đã ăn sâu vào tuỷ xương cần phải có ngay phương thuốc hữu hiệu để
trị, cứu nguy cho dân tộc. Tính chất rất cấp bách, không thể chần chừ được nữa.
Nhưng phương thuốc phải hiệu nghiệm. Chứ chữa bệnh nan y mà dùng mê tín để chữa
thì nguy càng nguy và hậu quả tất yếu phải diệt vong.
Toa thuốc “bánh bao tẩm máu người chết chém” mà lão Hoa dốc hết tiền của ra mua
để chữa bệnh cho con trai nào có ích gì. Cuối cùng Thuyên cũng chết. Lỗ Tấn
không chỉ phê phán, lên án gay gắt bệnh mê tín đến ngu muội của quần chúng mà
quan trọng hơn, cấp bách hơn, thiết thực hơn, cần có một phương thuốc mà phương
thuốc này phải giác ngộ được quần chúng, làm cho quần chúng thấy rõ sự lạc hậu,
thối nát, đớn hèn mục ruỗng của triều đại phong kiến đang thống
trị họ, đang đè nặng, mê hoặc cả thể xác lẫn tinh thần của họ. Không những thế
còn thấy được dã tâm bẩn thỉu của ngoại bang đang de doạ đến giống nòi dân tộc.
Và cái “toa thuốc” ấy họ “uống” vào, họ phải bừng tỉnh, sáng suốt mà “hò reo”,
kẻ thù phải “bàng hoàng”. “Thuốc” ở đây đâu phải cho một người, một thế hệ mà
là “thuốc” cho giống nòi dân tộc, cho tương lai.
Còn biểu tượng
“vòng hoa trên mộ Hạ Du”? Tác giả viết: “Một vòng hoa, hoa trắng hoa hồng xen
lẫn nhau, nằm khoanh tròn trên nấm mộ khum khum”, “Hoa không nhiều lắm, xếp
thành vòng tròn tròn, không lấy gì làm đẹp, nhưng cũng chỉnh tề.” Một kẻ bị coi
là phản nghịch tử tù chết chém mà sao lại có vòng hoa trên mộ? Hai bà mẹ sửng sốt,
ngạc nhiên đến giật mình, thảng thốt. Họ không thể tin nổi nhưng đó là sự thật.
Trước mắt họ, có một vòng hoa đã được đặt trang nghiêm nơi mộ con mình vừa bị
chết chém. Thế là máu con mình đổ xuống không vô nghĩa như khi bị tẩm vào chiếc
bánh bao mà lão Hoa đã mua cho bé Thuyên uống. Máu của người cách mạng đổ xuống
đã thực sự lay động con tim, nhận thức của nhiều người. Dòng máu đổ xuống đã có
ích cho đời và cho người. Một niềm tin đã khởi dậy, một niềm lạc quan đã ùa vào
trái tim, tâm hồn của quần chúng nhân dân. Người chiến sĩ cách mạng
mất đi hoàn toàn không uổng phí, vẫn luôn hiển hiện trong sự tiếc thương, kính phục,
ngưỡng mộ của mọi người. Đây chính là vị thuốc quý, là chiếc chìa khoá mở toang
cái cánh cửa mê muội, ấu trĩ,
thờ ơ, lạnh nhạt bấy lâu nay đang
quây kín, siết quanh họ. “Vòng hoa trên mộ” của Hạ Du là biểu tượng thể hiện mơ
ước, niềm tin của mọi người về ngày mai tươi sáng. Ngày mai tươi sáng ấy đã “nhú lên bằng
nửa hạt gạo” đầy hứa hẹn từ phút giây mà hai bà mẹ trải lòng cảm mến,
thương quý nhau trong một “buổi sáng mùa xuân vẫn còn lạnh lắm”.
“Thuốc” là một
truyện ngắn mang tính ẩn dụ cao. Mức độ ẩn dụ đậm đặc, càng đọc càng phát hiện
ra nhiều điều sâu kín ẩn giấu trong từng con chữ, hình ảnh của thiên truyện ngắn
độc đáo này.
Thứ Tư, 8 tháng 8, 2018
TIẾNG ĐÀN ĐỨT RUỘT LÒNG ĐAU - lời bình của LÊ THÀNH VĂN - CHƯ YANG SIN SỐ 311 tháng 7 năm 2018
Sổ tay Thơ:
NGHE HÁT HUÊ TÌNH
Đêm
cuối năm ngồi nghe hát huê tình
Tiếng
đàn đáy chập chùng quá khứ
Đào
nương ơi!
Giọng em ca sao vừa quen vừa lạ
Trăm
năm rồi tiếng hát vẫn liêu trai
Có chút gì trong nỗi nhớ tàn phai
Tiếng sênh phách gõ vào tim nhoi nhói
À
ơi...
"Giang
san một gánh giữa đồng"
Thuyền quyên còn nhớ
Ai cuồng si
Ai nhịp phách
Ngàn
năm
Không
đổi
Đêm
nay đại ngàn gió thổi
Tiếng
đàn như ảo ảnh
Sương
phai
Như
tay ai
Buông
xuống cung đàn
Tơ rung
Ơi
người thi nhân
Mười
năm nung chí
Nhớ những ngày buồn vui
Lệ
chưa rơi
Mà
thơ cạn hứng
Ơi
đào nương hỡi
Ca gì những điều u uất
Sầu hận mà chi
Kẻ
sĩ có bao giờ vui sướng
Cánh chim ngàn dặm nỗi sầu
Rượu
nồng muốn hát chẳng nên câu
Nhịp phách
Đêm
tàn
Nhỏ lệ
Khóc
ai đào nương hỡi... đến bạc đầu
Thế gian ơi hề!
Thế gian!
Lung linh như nước
Cung đàn thâm sâu
Tiếng đàn đứt ruột lòng
đau
Người ngồi hoá tượng
Chân cầu nước trôi...
TRẦN CHI
LỜI BÌNH:
Chưa đọc nhiều thơ Trần Chi, thi thoảng trong các tuyển
thơ của Hội Văn học Nghệ thuật Đắk Lắk lại được gặp một số bài do anh tự chọn để
in cùng với nhiều tác giả khác, vì vậy tôi không thể nhận định gì nhiều về tác
giả. Có điều, khi đọc Nghe hát huê tình, cảm giác thơ anh phảng phất một
điệu hồn hoài cảm, tha thiết với quá khứ xa xưa, đậm chất phiêu lãng nên mượn đôi dòng
riêng cảm nghĩ về thi phẩm trên, xem đó như một tấm lòng tri âm vậy.
Hát huê tình mà tác giả muốn nói ở bài thơ này
chính là hát ả đào hay còn gọi là hát ca trù, thịnh hành ở khu vực Bắc bộ và Bắc
Trung bộ (khác với hát đối đáp ở Nam bộ trong dân gian người ta cũng quen gọi là hát huê
tình - L.T.V nhấn mạnh). Hát ca trù ở nước ta hình thành và phát triển từ
thế kỷ 15, đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 18, 19. Đây là loại hình ca hát có sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa văn chương và âm nhạc, trong đó thể loại hát nói là phổ
biến hơn cả. Ở nhan đề bài thơ, Trần Chi không dùng các từ ả đào, ca trù mà lại
dùng chữ "huê tình" để gợi tả một cuộc tri ngộ giữa tài tử với giai
nhân qua một mối lương duyên ngoài khuôn phép. Nhờ đó, Nghe hát huê tình mang vẻ
đẹp lãng mạn, hào hoa của những khúc diễm tình muôn thuở chứa chan.
Thời gian nghệ thuật được tác giả giới thiệu trong phần
đầu bài thơ là một "đêm cuối năm" thanh bình và yên ả. Không khí của
buổi hoà nhạc đặc biệt này vẫn mang nét trang trọng cổ xưa. Có đào nương cất tiếng
ca cùng bộ phách gõ nhịp, người đánh đàn đáy là anh kép phụ hoạ theo tiếng hát
liêu trai, người thưởng ngoạn là nhân vật trữ tình tác giả với biết bao nỗi niềm
hoài cảm. Nghe hát huê tình trong thời điểm hiện tại, nhưng khi tiếng hát
của đào nương cất lên, tâm hồn thi nhân như trôi về quá khứ. Những xúc động bồi hồi cứ mở
ra mênh mang lắm nỗi niềm riêng:
Đêm cuối năm ngồi nghe hát huê tình
Tiếng đàn đáy chập chùng quá khứ
Đào nương ơi!
Giọng em ca sao vừa quen vừa lạ
Trăm năm rồi tiếng hát vẫn liêu trai
Khi tiếng đàn đáy ngân lên, quá khứ cha ông ngày xưa
đã chập chùng hiện về trước mặt. Một thán từ "ơi!" cất tiếng gọi đào
nương, một lời khen như tiếng trống chầu điểm vào nơi đắc ý của tác giả khi cảm
được tiếng hát liêu trai của người ca nữ. Cả không gian lắng đọng trong bước đi
nhẹ nhàng của thời gian hướng về phía mùa xuân như một khúc xuân tình diệu vợi.
Ở năm dòng thơ đầu, câu chữ cứ tự nhiên vỡ trào cảm xúc, không một chút dụng
công, kỹ thuật nào được phô diễn ở đây, vậy mà người đọc vẫn lắng lòng nghe tiếp
nỗi niềm tâm sự của thi nhân thiết tha trong buổi nghe hát huê tình:
Có chút gì trong nỗi nhớ tàn phai
Tiếng sênh phách gõ vào tim nhoi nhói
Trong "nỗi nhớ tàn phai" ấy, nhà thơ nghe
đào nương ca mà nhịp sênh phách cứ như gõ vào chính trái tim mình nhoi nhói. Nỗi
đau của quá khứ quay về nhập cuộc trong lòng tác giả bằng một sự cảm thông tha
thiết với tiền nhân. Một thi nhân Nguyễn Công Trứ quyết liệt, ngang tàng mà tài
năng và phong tình tột đỉnh nhân gian: "À ơi.../"Giang san một gánh
giữa đồng"/Thuyền quyên còn nhớ". Một Nguyễn Du mười năm
nung chí lắm nỗi hợp tan giữa bể loạn của thời cuộc điêu linh: "Ơi người thi nhân/ Mười
năm nung chí" hay đó cũng chính là tâm tình của tác giả giữa "đại
ngàn đêm nay gió thổi"? Hoá ra bao nhiêu kẻ sĩ trên đời này nào ai có được niềm vui, tất cả
đều sầu tư lắm nỗi, nên lắng nhịp phách
đàn mà cùng đào nương cất lên những niềm u uất khôn nguôi:
Ơi đào nương hỡi
Ca gì những điều u uất
Sầu hận mà chi
Kẻ sĩ có bao giờ vui sướng
Cánh chim ngàn dặm nỗi sầu
Tất cả chung hoà giọt lệ cảm khái bùi ngùi. Những
giọt lệ đồng cảm tri âm ấy cũng đã được nhà thơ Trần Chi hình thức hoá bằng những dòng
thơ ngắn - hai chữ, chơi vơi rơi như một nỗi niềm:
Nhịp phách
Đêm tàn
Nhỏ lệ
Hoá ra kẻ sĩ xưa nay đều thế cả, chất chứa bao buồn
đau u uất giữa thời cuộc bể dâu. Quả chỉ có tiếng đàn, nhịp phách của khúc huê
tình cất lên mới thoả chí phiêu bồng. Đến khổ thơ kết bài, vẫn kiểu câu thơ vắt
dòng tự do nhưng tự thân đã nhuần nhị ngân lên bằng âm điệu lục bát. Tôi
nghĩ, có lẽ chính nỗi lòng thẳm sâu của tác giả khi đã hoà điệu hồn mình với
quá khứ cha ông, ngồi "hoá tượng" nhìn chân cầu nước xuôi cuốn bao phồn
hoa, danh lợi nên tình thơ đã nhập vào điệu tình của thể lục bát ngân nga, dù cố
bứt mà chưa hẳn đã rời xa quá vãng. Đọc khổ thơ này, tôi cứ mường tượng một Trần Chi lặng lẽ
"lòng đau" trước thế gian "lung linh bóng nước". Sự giật
mình thảng thốt của thi nhân khi nhận ra bao phù hoa của thế gian mới xa
xót làm sao:
Thế gian ơi hề! Thế gian!
Lung linh như nước
Cung đàn thâm sâu
Tiếng đàn đứt ruột lòng đau
Người ngồi hoá tượng
Chân cầu nước trôi...
"Thế là hết nước trôi qua cầu", người ngồi
hoá tượng trước trùng trùng dâu bể cõi phù sinh khi đào nương cất tiếng ca vang khiến ta
chạnh lòng nhớ đến một chàng Tư Mã Tương Như nhỏ lệ "đượm tràng áo xanh"
nơi "bến Tầm Dương canh khuya đưa khách". Bạch Cư Dị thương người kỹ
nữ lạc loài nơi đất khách, Trần Chi bâng khuâng mối đồng cảm sầu bi cùng với
đào nương trong Nghe hát huê tình, nhờ đó lời thơ phảng phất tấc lòng đồng
ngộ tri âm của tài tử gặp giai nhân trong văn chương cổ điển. Sâu lắng hơn, điệu hồn ấy
đã hoá vào tâm sự của những văn nhân, thi sĩ tài hoa muôn đời của đất nước. Vì thế,
tôi đọc Nghe hát huê tình mà như nghe tiếng lòng diệu vợi của cha ông, thẳm
sâu điệu thức ca trù
mang mang nỗi sầu vạn cổ.
LÊ THÀNH VĂN
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)