Thế hệ chúng tôi
sinh ra trong khói lửa chiến tranh. Tiếng bom gầm đạn rú được nghe nhiều hơn
tiếng ru của mẹ. Lớn lên một chút, khi nhận biết được những người xung quanh,
bỗng giật mình vì toàn thấy người già và phụ nữ; còn thanh niên trai tráng đã
nối gót nhau lên đường cầm súng đánh Mĩ, giải phóng Miền Nam. Hình ảnh những
người đàn ông trung niên, phụ nữ không còn đủ tuổi và sức khoẻ để tuyển vào bộ
đội thì hàng ngày ra đồng, trên vai họ ngoài cái cày, cái bừa còn có thêm khẩu
súng trường K44, sẵn sàng nhả đạn vào bầy quạ sắt đến ném bom phá hoại. Khi máy
bay Mĩ đến, người ta lấy ngay cái bừa, cái cày… phương tiện lao động thô sơ của
người nông dân Việt Nam làm điểm tựa kê súng
trút đạn lên đầu thù; lũ giặc lái không thể hiểu nỗi, làm sao mà ở đâu
cũng có lưới lửa phòng không tầng tầng lớp lớp bủa vây chúng. Còn chúng tôi,
mới chục tuổi đầu đã phải chứng kiến bao cảnh thịt nát xương tan: sau mỗi lần dứt
tiếng bom nổ là máu người lại đổ, có lần người ta phải chặt cả một bụi tre to để
lấy bộ ruột người xấu số bị bom hất lên đó. Các mẹ, các chị nước mắt trộn mồ
hôi, dùng hai tay bới đất tìm nhặt từng mảnh vụn thân thể của 37 em học sinh
lớp ba và cô giáo đang trong buổi học bị máy bay ném bom trúng vào giữa lớp. Ác
liệt là vậy, nhưng cánh trẻ chúng tôi vẫn đến trường, mặc dù đầu phải đội mũ
rơm, lưng đeo nùn rơm chống mảnh đạn của quân thù. Những tháng năm còn học cấp
một (bậc tiểu họcbây giờ), chúng tôi được làm quen với môn Lịch sử và rất tự
hào về truyền thống dựng nước, giữ nước của cha ông với bao chiến công hiển
hách. Lớn lên một chút nữa, tôi được biết ngay trong thời đại của mình, lớp cha
chú đã có một trận đánh nổi tiếng: “Lừng
lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Chiến thắng ấy không chỉ manh tính quyết định mang lại độc lập tự do cho nửa
nước Việt Nam mà còn góp phần to lớn vào sự cáo chung chế độ Thực dân trên toàn
thế giới. Điện Biên Phủ - Việt Nam! Tiếng hô đầy ngưởng mộ, tự hào của bè bạn
khắp thế giới trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là biểu tượng khích
lệ cho các dân tộc bị áp bức vùng lên. Tự hào về ông cha với những chiến công
hiển hách đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho non sông đất nước; tự hào về
một vùng đất anh hùng với những trận đánh oai hùng, lưu danh hậu thế và có lẽ vì vậy, tôi đã từng mơ ước
được một lần đặt chân tới Điện Biên Phủ, để tận tay bốc một nắm đất thấm máu
cha anh, đặt lên bàn thờ tổ tiên với tấm lòng thành kính ngưỡng mộ, biết ơn.
Học chưa xong cấp III, miền Nam được
giải phóng với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử, Nam Bắc sum họp một nhà, cả nước vỡ òa trong niềm vui chiến thắng. Miền Nam
trong những ngày đầu được giải phóng là một bãi chiến trường, nơi nào cũng hằn vết
bom đạn cày phá. Theo tiếng gọi của Đảng, lớp thanh niên chúng tôi lại rời ghế
nhà trường phổ thông vào Nam góp phần xây dựng lại quê hương, chống bọn phản
động và đưa ánh sáng văn hoá đến cho người dân Tây Nguyên. Ước mơ về thăm Điện
Biên Phủ đành phải gác lại.
Đầu tháng 7 năm 2005, tôi bất ngờ được
Hội VHNT Dak Lak cho tham dự đoàn văn nghệ sĩ lên thăm Điện Biên Phủ;Thế là, mơ
ước bao nhiêu năm nay bỗng nhiên thành hiện thực. Đoàn có sáu người do NSƯT Vũ
Lân làm trưởng đoàn, xuất phát vào một buổi sáng đẹp trời tại Buôn Ma Thuột;
rong ruổi đường trường, ngày đi đêm nghỉ, ba ngày sau chúng tôi đến thị xã Sơn
La. Ở lại thăm thuỷ điện Sơn La và giao lưu với lãnh đạo địa phương một ngày,
đón thêm ba Hội viên dự trại tại đây rồi tất cả cùng kéo nhau lên Điện Biên
Phủ. Đường ngoằn ngoèo uốn khúc, cheo leo trên vách núi, như một sợi chỉ mỏng
manh vắt qua các sườn đồi leo dần, leo dần lên cao. Bác Vũ Lân ngồi phía trên
quay lại thông báo cho mọi người: “Đến đèo Pha Đin rồi đấy”! Mọi người ồ lên, quay
mặt qua cửa sổ để nhìn cho rõ. Xe leo đèo, một bên là vách núi, một bên là
thung lũng sâu thăm thẳm, như đi trên trời nhìn xuống vậy. Nhà văn Nguyễn Văn
Thiện, giáo viên dạy văn trường cấp III Nguyễn Trãi cất tiếng đọc:
“Dốc
Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo
Lũng Lô anh hò chị hát”.
Chịu cho các cụ ta
ngày xưa giỏi quá, dốc thế này mà vẫn gánh vác vượt được! Nhạc sĩ Sỹ Hùng ngồi
bên cạnh thêm vào: “Khen các cụ thì khen cả ngày!” Ừ cũng phải thôi, trong
chiến dịch Điện Biên Phủ, ta chủ yếu dùng sức người là chính. Kéo pháo, vận tải
quân tư trang, vũ khí, hậu cần… tất tần tật đều bằng đôi vai người dân công hoả
tuyến. Từ miền Thanh Nghệ ra hay đồng bằng trung du Bắc bộ lên, một chiến dịch
vận tải rầm rộ được quân và dân ta thực hiện để phục vụ cho chiến dịch. Xe đạp,
ngựa và đôi vai con người nối tiếp nhau băng rừng vượt suối, bất chấp mưa rừng,
gió núi và cả bom đạn quân thù; nhân dân ta đã làm nên một kỳ tích vận tải thần
kỳ, bí mật tuyệt đối, làm cho kẻ thù sửng sốt, khiếp sợ. Chắc chắn các cơ quan
tình báo của hai đế quốc - thực dân tham chiến chính thức ở Điên Biên Phủ,
không thể hiểu nổi vì sao giữa núi cao, vực sâu như thế mà quân dân ta vẫn vận
chuyển được khí tài, lương thực… với một khối lượng khổng lồ mà bọn chúng không
hề hay biết. Bọn đề quốc và thực dân, không thể hiểu nỗi là phải, cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc của người Việt Nam là cuộc chiến tranh nhân dân, mọi
người dân nghe theo tiếng gọi của Đảng, đoàn kết xung quanh Đảng và hành động
theo sự lãnh đạo của Đảng; đấy là sức mạnh đoàn kết của cả một dân tộc anh hùng
cùng chung chí hướng đánh đuổi ngoại xâm.
Lên đến đỉnh đèo
dừng lại nghỉ, chúng tôi bước xuống xe hít thở không khí trong lành mát mẻ của
núi rừng. Đưa mắt nhìn ra xung quanh chỉ có trời mây và rừng, tuyệt nhiên không
một bóng nhà. Tại đỉnh đèo, một bức tượng được khắc khá công phu, cao khoảng 4
mét, hoành tráng ghi lại chiến công vượt đèo của quân dân ta trong chiến dịch
Điên Biên Phủ. Hơn chục thanh thiếu niên người dân tộc bản địa, mặc áo Chàm
chạy lại vây lấy xe chúng tôi mời mua hàng. Các thứ được mời chào có: dưa, mật
ong và những chú ong đang vừa bò, vừa lừ lừ nhìn mọi người. Những con ong chằn
to như ngón tay út người lớn, mình mang những khoanh màu đen, xen lẫn màu nâu
sẫm, có bộ rằng to, trông dữ tợn được nhốt trong lồng sắt hình chiếc đó đơm tép
ở đồng bằng Bắc bộ. Một em trai khoảng hơn chục tuổi nói với tôi: “Ong này ngâm
rượu tốt lắm, chỉ cần ba con ngâm một lít rượu là có thể chữa khỏi đau lưng,
đau khớp đấy”. Tôi tò mò hỏi lại: “Làm sao em bắt được?” “Nó ở trong lòng đất
ấy, chỉ có một cửa ra ngoài thôi, lấy cái này úp vào miệng lỗ, con ong bay ra
khỏi tổ tự nhiên chui vào đây, khi thấy nhiều thì đậy miệng rọ lại, lấy mang ra
đây bán cho vui thôi.” “Em không đi học à?” “Thầy cho nghỉ hè mà!” Tôi suýt bật
cười vì câu hỏi vô duyên của mình và nói với em: “Tây Nguyên của mình loại ong
này cũng có, nó độc lắm, có thể đốt chết cả con trâu rồi xé thịt tha về tổ
đấy”. “A, loại ong này trong Nam cũng có à, hay quá nhỉ!” Chia tay những người
bạn đường hiếu khách, chúng tôi tiếp tục lên đương.
Sáng hôm sau cả đoàn lên thăm Sở chỉ huy
chiến dịch của ta đóng trên đỉnh núi. Cánh rừng nguyên sinh còn đây, cây cối
cao vút che cho lối mòn dẫn du khách lên thăm căn cứ địa ngày xưa, nay được lát
đá đi như dạo trong công viên. Thấy đoàn lên, hơn chục cháu bé người Tày, khoảng
chín mười tuổi chạy theo đoàn và rất vô tư, các cháu trở thành thuyết minh
riêng cho đoàn. Cứ đến một căn hầm hay một mái chòi lợp cỏ gianh bên đường, các cháu lại tranh nhau giới thiệu:
Đây là chỗ ở của cụ Trần Đạo Thuý, kia là nơi ở của bộ phận thông tin, chiếc
hầm này là của Ban cố vấn… Các em cứ hồn nhiên thuyết minh bằng tiếng Việt rất
đúng giọng thủ đô, làm anh em văn nghệ sĩ Dak Lak cứ tròn mắt thán phục. Hầm
của Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên, được đào xuyên qua lòng một ngọn núi và
đứng trên cửa hầm có thể nhìn thấy toàn bộ khu vực lòng chảo cánh đồng Mường Thanh.
Cả khu vực chỉ huy được nối với nhau bằng giao thông hào, trong các điểm ở sâu
trong lòng núi có cả chỗ ăn nghỉ cho các chiến sĩ bảo vệ và thông tin. Sở chỉ
huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chỉ một mái lều gianh nhỏ dựng trước cửa
hầm, nền đất khá bằng phẳng. Qua lều là căn hầm nền đất, tường đất, chiều ngang
hơn một mét, cao khoảng gần hai mét nằm sâu trong lòng núi, không có gạch, hay
bê tông, mà tất cả bằng đất; bàn làm việc được kết bằng những nan tre, ghế ngồi
đều bằng những cây rừng thân tròn đục lỗ chôn chân xuống đất. Thật tài tình và
kỳ diệu khi binh chủng Công binh non trẻ ngày ấy thiết kế, xây dựng được cả một
công trình ngầm đồ sộ, chỉ bằng sức người với dụng cụ thô sơ: cuốc, xẻng, xà
beng… Hơn 60 năm qua đi, các công trình ấy đến nay chắc chắn vẫn làm cho du
khách sửng sốt khi được tận mắt chứng kiến những tác phẩm nghệ thuật quân sự
độc đáo này. Không biết những vị khách nước ngoài từng là bại tướng trong chiến
dịch này, khi trở lại đây, tận mắt chứng kiến Chỉ huy sở của ta nằm ngay trên
đỉnh đầu của họ và chỉ cách hầm chỉ huy địch khoảng 3 km đường chim bay mà
không biết; họ sẽ nghĩ gì! Đây đúng là một công trình nghệ thuật về quân sự có
một không hai trong lịch sử nhân loại.
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI