Buôn Um quê tôi chỉ có hơn hai chục nóc nhà sàn dựng
ngay dưới chân dãy Chư Yang cao vút. Ban ngày tiếng chim hót, vượn hú và có cả
tiếng chim công gọi nhau “Tố hộ, tố hộ!” vang vọng vào từng góc bếp. Mùa bắp,
mọi người phải thay nhau gác rẫy suốt ngày đêm, đốt lửa gõ chiêng xua đuổi heo,
nai, khỉ, két tìm về phá hoại. Chẳng biết chúng ở đâu mà kéo về nhiều đến thế,
có bầy két mỗi lần bay qua rẫy làm tối cả góc trời, tiếng vỗ cánh như tiếng gió
lốc. Người dân nơi đây chủ yếu trồng lúa nước, bắp, đâu theo mùa, nhờ Yàng nhà
ai cũng đủ gạo ăn quanh năm. Những ngày lễ tết cũng vây quanh ché túc, ché ba
rôm ra cả đêm.
Rừng sát nhà, toàn những cây hàng mấy trăm mùa rẫy
đứng chen nhau bên những tảng đá khổng lồ. Đã bao đời nay khi đốn gỗ làm nhà
những chàng trai lực lưỡng phải đi xa tìm cây ưng ý đốn, chẻ, kéo về chứ không
phá rừng gần. Vì vậy buổi sáng sớm khi con gà rừng giật mình tỉnh giấc cất
tiếng gọi bình minh cũng là lúc đôi chim “năm trâu sáu cột – bắt cô trói cột”
tìm thấy nhau, không khắc khoải gọi nữa, nhường lời cho các chú dọc, vượn nhảy
nhót, rung cây hú gọi vang trời đất. Đó cũng là lúc các amí, amai dậy nhóm lửa,
thổi cơm chuẩn bị cho một ngày mới.
Chiều đến khi ông mặt trời nấp sau dãy núi, mọi người
cơm nước xong lại vây quanh bếp lửa lắng
nghe già là kể chuyện. Chuyện già làng kể nhiều lắm song từ bé tôi đã nghe và
nhớ mãi chuyện Yàng phạt người tham lam vì dám động đến rừng.
Không biết từ bao giờ trên dãy Chư Yang cao vút có một
bầy sơn dương đông đúc. Chúng là loài vật hiền lành nhưng khéo léo vô cùng.
Những tảng đá to như gian nhà chen lấn nhau từ chân núi kéo lên tận đỉnh trơn
như đổ mỡ, vậy mà chúng lon ton chạy nhảy,
nô đùa trên đó cấm có trượt chân bao giờ. Những cây sung sum sê bên bờ
suối người còn không trèo nổi, vậy mà chúng vẫn hái được những chùm quả ở lưng
chừng cây. Lúc hái quả trên cao chúng khéo léo đứng bằng hai chân sau, hai chân
trước bám vào cây hoặc kéo lá xuống để ăn. Điều đặc biệt của bầy sơn dương là
không bao giờ phá phách hoa màu. Chúng chỉ nhởn nhơ trên triền núi đá, chiều
chiều khi ông mặt trời sắp ngủ lại kéo nhau lên mỏm núi, nơi có những tảng đá
cao vút, đứng nhìn xuống buôn. Những ngày đẹp trời ngồi trên nhà sàn có thể
nhìn rõ con đầu đàn to như con bò, đen bóng đứng uy nghi nổi bật giữa bầu trời
trong xanh. Từ xa xưa cho đến nay dân buôn Um không ai săn bắt sơn dương bởi đó
là loài thú quá tinh khôn, không dễ gì bắn hạ. Hơn nữa chúng không làm hại gì
ai mà chỉ tăng thêm vẻ đẹp cho quê hương. Mỗi buổi bình minh hay lúc chiều tà trên
các mỏm núi vương vất những sợi nắng vàng chúng lại rủ nhau xếp hàng đứng nhìn
xuống buôn như những vị thần được yàng sai xuống bảo vệ mùa màng cho con người.
***
Năm ấy bông có người lạ vào buôn lân la trò chuyện, rủ
rê đám thanh niên đi săn. Con thú người lạ muốn mua chính là bầy sơn dương trên
đỉnh núi Chư Yang. Người ấy cho biết con sơn dương quý lắm, bộ xương đem nấu
cao dùng cho đàn ông thì tuyệt vời, chắc chắn không có loại thuốc tây – đông
nào sánh được và các bà vợ sẵn sàng móc hầu bao mua dành cho chồng. Cặp sừng
sơn dương có giá trị gần như sừng tê giác chuyên dùng để chữa các bệnh đường
ruột – cách dùng cũng cực kỳ đơn giản: Mài đầu sừng vào chén sành, pha chút
rượu trắng thì dù có đau bụng vật vã thế nào, chỉ một phút sau khỏi ngay. Bộ
phận quý nhất của con sơn dương – đặc biệt con sơn dương chúa – chính là bốn
cái chân. Sở dĩ chúng thuộc loài móng guốc nhưng leo trèo trên cây, trên đá
được là nhờ trong móng của nó có túi mật. Chính túi mật này giúp chân sơn dương
dù có bị té cũng lành ngay. Nhìn chung trong người con sơn dương cái gì cũng
làm thuốc được, vì thế người lạ mới phải lặn lội vào buôn thuê người săn bắn.
Từ lâu người buôn Um xem sơn dương là biểu tượng của thần may mắn, mang lại mùa
màng bội thu cho mọi nhà. Vì vậy cho dù cái giá được đặt ra đổi con sơn dương
đầu đàn là cả chục con bò mẹ vẫn không ai muốn nhận lời. Già làng nghe chuyện
đã nói: “Sơn dương là bạn của buôn ta, không ai được sát hại. Kẻ nào làm điều
ác với nó sẽ bị đuổi khỏi buôn!”.
Nhưng không phải ai cũng nghe theo lời đúng, trong
buôn vẫn có kẻ tham lam, xem rượu, tiền là trên hết, sẵn sàng đánh đổi mọi thứ.
Hắn chính là Y Reo, một kẻ đẹp mã, lực lưỡng nhưng lười lao động, chỉ thích
uống rượu và tính chuyện đổi chác kiếm lời. Có lẽ vì vậy nên đã hơn hai chục
mùa rẫy rồi hắn vẫn chưa có ai thèm bắt làm chồng, tháng ngày cậy nhờ vào mẹ,
vợ chồng chị gái, em gái. Nay nghe chuyên một con sơn dương đổi cả chục con bò,
hắn mừng như bắt được vàng. Hắn tin đã đến lúc hắn được đổi đời giàu có hơn
người và khối cô gái sẽ chạy theo hắn xin bắt làm chồng. Già làng đã cấm không
được săn bắn, và hắn cũng sợ luật bất thành văn ấy, song bỏ lỡ cơ hội này thì
hắn tiếc lắm. Phải có cách để nhận sốbò của người khách lạ. Cuối cùng, cái đầu
đầy rượu nhưng không kém phần xảo quyệt của kẻ ưa đổi thứ này lấy thứ khác kiếm
lời hơn là đi phát rẫy làm nương cũng vạch ra một kế hoạch táo bạo để thoát
khỏi lời nguyền của già làng. Quả thật không ai ngờ hắn lại liều lĩnh làm vậy.
***
Đêm cuối tháng, bầu trời mùa khô Tây Nguyên trong vắt
rắc đầy những vì sao óng ánh nhấp nháy như những con mắt đang dõi theo hai bóng
den soi đèn pin nối nhau bám vào vách đá đeo lên đinh Chư Yang. Kẻ dẫn đường
không ai khác ngoài Y Reo. Dù phải bám vào từng mép đá, mò mẫm đặt chân lên các
cạnh đá sắc như dao cạo, có hòn trơn
tuột song trên vai hắn chiếc gùi đựng nước, đựng rượu và khô nai vẫn được giữ
cẩn thận. Kẻ bám theo sau vác khẩu sung Galíp sản xuất tại Hoa Kỳ chính là vị
khách lạ cần mưa sơn dương. Theo kế hoạch của Y Reo, hai đứa lợi dụng đêm tối
trèo lên đỉnh núi, núp gần hòn đá lớn,
nơi mỗi sáng sớm hay hoàng hôn con sơn dương chúa thường dẫn bầy ra đứng nhìn
xuống buôn. Lúc đó, chỉ cần kéo cò chắc chắn sẽ hạ được con mồi. Không ai phạt
được Y Reo vì hắn có bắn đâu, người lạ bắn đấy chứ! Còn người lạ thì đâu phải
người dân buôn Um nên không bị ràng buộc bởi lời nguyền. Bọn chúng quả thật
“ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, tìm đến với nhau để làm chuyên đen tối.
Mặc dù rất khó khăn, vất vả gần sáng khi bầy vượn ở
lưng chừng núi gọi nhau thức dậy, hai đứa cũng đến được nơi cần đến. Đứng trên
mỏm đá, bọn chúng hết nhìn phải, rồi nhìn trái tìm chỗ ẩn nấp. Một bên là vực
sâu hun hút, đen thui, một bên là đá lởm chởm chỉ cần sơ xuất một chút thôi sẽ
rơi xuống vách đá. Đắn đo, cân nhắc mãi, hai đứa cũng tìm được chỗ núp chỉ cách
mỏm dá bầy sơn dương thườngđứng khoảng gần hai chục mét. Với khoảng cách ấy,
một viên đạn gồm chục viên bi khi bay ra khỏi nòng sẽ tỏa rộng như một chiếc
chài chụp xuống, chắc chắn sẽ có viên trúng đích – cho dù người bắn có dở đến
mấy đi nữa.
Như thường lệ, khi phương đông ửng hồng, ông mặt trời
từ từ rẽ mây trèo lên đỉnh núi xa xa, đem theo những tia nắng vàng rải lên vách
núi, cũng là lúc bầy sơn dương theo nhau lên vách đá đứng ngắmbuôn Um và đón
bình minh. Cả bầy vẫn vô tình nhảy nhót theo sau con sơn dương chúa đen bóng
đang giương cặp sừng cong vút về phía sau, chìa bộ râu dài có lẽ phải đến nửa
mét uốn cong về phía trước phất phơ trước làn gió nhẹ ban mai, tận hưởng không
khí trong lành và nào có biết đâu cái chết đang chờ ngay phía trước mặt.
“Ầm!”. Tiếng súng nổ xé toang cảnh bình minh thanh
bình, vọng vào vách đá dội lại như tiếng một quả bom tấn ném xuống làm rung
chuyển cả núi rừng. Tội nghiệp con sơn dương chúa. Nó chồm lên theo bản năng,
tung hai chân trước lao vào không khí, nhằm đúng nơi tiếng súng phát ra bổ
xuống.
***
Sau này có người kể rằng họ thấy sơn dương chúa bay ra
khỏi mỏm đá lao vào hai kẻ bắn trộm rồi lăn xuống vực thẳm kèm theo một tiếng
nổ kinh hồn, tiếng nổ ấy còn lớn hơn cả tiếng súng vừa nổ nhằm vào nó, kéo theo đất đá lăn xuống ầm ầm, khói bụi mù
mịt che lấp cả bầu trời.
Già làng tức giận, kéo cả đoàn thanh niên trai tráng
trong buôn bươn bả leo lên đỉnh núi, định trị tội kẻ dám làm trái quy định của
buôn, xúc phạm thần linh. Nhưng khi lên đến nơi nhìn hai kẻ bắn trộm ông lại
bất giác trào nước mắt. Y Reo nằm ngã ngửa, giữa trán in rõ chiếc móng sơn
dương đóng vào làm bay mất một con mắt. Còn người lạ đôi mắt trợn ngược bị bầy
kiến vàng bu kín. Có lẽ cả hai đã rơi từ mỏm đá trên chục mét xuống hòn đá to
phía dưới. Yàng phạt mà!
Kể từ hôm ấy buôn Um chúng tôi không còn ai nhìn thấy
bầy sơn dương ấy nữa. Những thế hệ sau này chỉ còn được nghe kể lại về chúng
với một niềm tiếc nhớ xót xa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI