Chiếc xe xuất phát từ thành phố Buôn Ma Thuột đang
ngon trớn băng băng lao về phía huyện Ea Suôp, bỗng Trung uý Huy Hoàng – người
được Bộ chỉ huy Biên phòng Dak Lak cử đi theo Đoàn văn nghệ sĩ nhắc lái xe:
-
Anh rẽ vào khu
nhà làm việc của Vườn quốc gia Yok Đôn nhé!
-
Mình phải vào xin
phép mới được đi qua Vườn à? Nhà văn Nguyễn Thị Bích Thiêm ngạc nhiên hỏi lại.
-
Không phải vậy,
ta đi nhờ cầu của Vườn, vượt sông Srêpôk. Cầu xây dựng sát khu nhà làm việc của
Vườn nên ta phải đi qua đó.
Buổi sáng trước khi đi, Đại tá Lê Xuân Đáng – Chủ
nhiệm chính trị, thay mặt lãnh đạo cơ quan Bộ chỉ huy Biên phòng đã trình bày
cho Đoàn biết một số nét chính về tình hình biên giới Tây Nam mà tỉnh Dak
Lak quản lý. Kết thúc buổi trao đổi anh cho biết thêm: “Hiện nay đã có cầu bắc
qua sông Srêpôk nên không phải đi qua thị trấn Dak Min, tỉnh Dak Nông như trước đây nữa, con đường này gần hơn được
70km đấy!” Tôi mừng vì bớt được một đoạn
đường đèo dốc quanh co khó đi, nay con đường mới tuy có xấu một chút đi chăng
nữa, nhưng gần được tới 70 km thì tốt quá!
Cầu bắc qua sông Srêpôk chỉ đủ cho một làn xe đi qua,
chưa có lan can, cao lênh khênh so với mặt nước. Phía dưới cầu, dòng nước hiền
hoà phẳng lặng trôi, thỉnh thoảng gặp ghềnh đá mới giật mình tung bọt trắng
xoá, ào lên rồi lại lặng lẽ xuôi dòng. Vào mùa khô, con sông “chảy ngược” mới
hiền hoà làm sao, khó ai có thể tin được khi mùa mưa đến nó lại hung dữ đến
thế… Tôi nhớ lại, ngày 12 tháng 12 năm 2009, dẫn Đoàn văn nghệ sĩ vào thăm đồn Bo
Heng kết nghĩa với Hội VHNT, được thiếu tá Lê Quang Cánh - Đồn trưởng kể cho
nghe nhiều chuyện về người lính Biên phòng ở bến đò, nay có cây cầu bắc ngang
này. Nơi đây đã chứng kiến những câu chuyện tình cảm động của những người sĩ
quan Biên phòng với những người vợ, người yêu công tác và sinh sống trên địa
bàn tỉnh Dak Lak. Có ông Đồn phó của tôi – xin nhà văn dấu tên nhé, mới cưới
vợ, vợ làm nghề dạy học ở tận dưới huyện Cư M’gar, hai người thường hẹn hò nhau
chiều thứ bảy hàng tuần đến bến đò Vườn quốc gia Yok Đôn đón nhau. Nếu anh trực,
chiều thứ 7, sau giờ dạy chị lên thăm, anh vượt khoảng 50 km đường rừng đến
đón, chiều chủ nhật về; còn nếu chồng được nghỉ thì ngược lại vợ đến bến đò đón
chồng về. Do con thuyền quá nhỏ, chỉ chở người không chở dược xe máy, thành ra
hai người cứ hẹn nhau đến bến đò và gửi xe lại bờ, vượt sông đến với nhau.
Nhưng trời nhiều khi giở chứng như ghen với đôi vợ chồng trẻ, giận giữ trút nước
xuống, con sông đang êm đềm chạy ngược về phía tây bỗng gầm lên dữ dội và hung
hãn như một bầy voi nổi điên; khi ấy hai vợ chồng đứng hai bên bờ sông, cách
nhau chưa đến 100 mét nhưng không thể đến được với nhau. Họ gào lên trong mưa,
vượt qua cả tiếng gầm của gềnh, của gió bảo nhau về đi và hẹn tuần sau hãy đến…
nhưng rồi mặc gió thét, mưa gầm, quất những hạt nước vào mặt rát bỏng, họ cứ đứng
nhìn nhau nhoà dần, nhoà dần cho đến lúc màn đêm ụp xuống, không nhìn thấy được
nhau nữa mới gạt nước quay về…
Trong thời bình, chiều thứ 6 người ta đã chuẩn bị thu
xếp để hai ngày nghỉ cuối tuần đi chơi nơi đâu cho phù hợp sau một tuần làm
việc căng thẳng, còn người lính canh giữ biên cương thì vậy đó… các anh đã phải
gác nỗi niềm riêng tư, lo làm tròn trách nhiệm của những người vì sự bình yên
của tổ quốc.
Đường xấu, xe chạy chậm và bụi mù mịt, lái xe không
dám đóng cửa, bật máy lạnh vì sợ mấy Nữ sĩ say xe; thế là đành chịu... bụi! Đúng
là đường lên Biên cương, dốc, vực, gềnh và những cây cầu bắc tạm thỉnh thoảng
lại thấy đá va vào gầm xe, tài xế méo mặt…, cuối cùng Đoàn cũng đến đồn Biên
phòng Bô Heng. Được điện báo trước, các anh trong ban chỉ huy ra tận xe đón
Đoàn, cái nóng, cái mệt bay hết cả, chỉ còn lại tiếng cười đọng lại trên môi
sau những cái bắt tay thật chặt. Đồn là đây, tôi đã đên cả chục lần nhưng lần
nào đến cũng có một cảm giác thật lạ. Nhìn những người chiến sĩ dạn dày sương
gió, mỗi ngày chỉ được phép dùng không quá 2 lít nước vừa nấu ăn, vừa uống mới
cảm nhận hết được nỗ gian lao vất vả của mọi người ở đây.
Thiếu tá Lê Quang Cảnh – Đồn trưởng, còn khá trẻ hay
cười và kiệm lời, nhắc mãi chuyện đường khó đi, anh chị văn nghệ sĩ vất vả mới
tới thăm được Đồn, trời lại nóng quá… Đồn trưởng và biết bao chiến sĩ ngày đêm
bám trụ nơi đây dãi gió dầm sương suốt tháng này qua tháng khác không nghĩ đến
mình lại chỉ trăn trở cho Đoàn, làm tôi cảm thấy bùi ngùi. Các anh chỉ nghỉ đến
đất nước, đến những người xung quanh và hình như quên đi cả chính mình đang đối
diện với vô vàn khó khăn khắc nghiệt. Qua tâm sự với các anh, tôi được biết
cuộc sống đời thường nơi biên cương không chỉ khó khăn về vật chất, khí hậu
khắc nghiệt, kẻ thù rình rập phía bên kia mà phải đối diện với cả những hiểm
nguy đe dọ tính mạng từ những chuyện tưởng như rất nhỏ nhặt. Chuyện kể:
Một sĩ quan mới tốt nghiệp ra trường về Đồn công tác,
đồng nghiệp dặn: “trên này thú dữ nhiều lắm, khi đi công tác cũng như sinh hoạt
hàng ngày phải cẩn thận không nguy đấy”. “Sao vậy”! “Rắn , rết, trăn… đều có
thể gây tử vong cho người, phải đề phòng”. “Ôi tưởng gì chứ rắn rết thì ở quê
em gặp thường xuyên, chuyện nhỏ, anh yên tâm”. Mồm nói, chân thọc vào dày định
đứng dậy thì bất ngờ thét lên: Ối! Không biết con rắn chui vào dày từ lúc nào
đã đớp một miếng vào ngón chân cái, làm người sĩ quan mới về phải vào viện điều
trị cả tháng.
Nói đâu xa, đồng chí Đội trưởng trinh sát… – Trung tá
Võ Văn Thái, Đồn trưởng đồn Yok Đôn kể: …đi công tác về cùng anh em ra suối,
tắm xong chuẩn bị lên bờ thì bất ngờ bị bị rắn cắn; anh em chủ quan bảo rắn ở
dưới nước, chắc rắn nước có cắn cũng không sao đâu và tất cả kéo nhau về ăn cơm
còn đùa, tếu được. Nhưng vừa cầm đến bát cơm chưa kịp ăn đã lên cơn giật, cấp
cứu đưa về tỉnh rồi đưa thẳng về bênh viện thành phố Hồ Chí Minh, thay máu mấy
lần mới sống được, nay đồng chí ấy đã chuyển về Hà Nội.
Tôi tò mò hỏi thêm: “rắn độc nguy hiểm ai cũng biết,
ngoài ra còn loài thú nào đáng sợ như rắn nữa không?” “Có đấy, có khi còn hơn
cả rắn nữa!” “Con gì mà khủng khiếp thế”? “Heo rừng”! “Heo rừng có gì mà phải
sợ”? Thấy tôi tỏ vẻ không tin, Trung tá Võ Văn Thái kể: Đầu năm 1990 tôi dẫn
một tổ đi tuần, đến bên suối Dak Man cử một cậu ở lại để nấu cơm chiều, còn cả
tổ tiếp tục công việc. Đi chưa được bao xa bổng nghe thấy tiếng kêu: “Anh Thái
ơi cứu em với!” Cả đội vội chạy quay lại chỗ tiếng kêu thì thấy anh bạn được
phân công ở lại nấu cơm leo tít lên ngọn cây dầu; dưới gốc cây, một chú heo một
to đùng đang chồm hai chân trước lên gốc cây như định trèo lên! Anh em lấy cây
khô đốt lửa làm đuốc, chạy lại xua, nó mới chịu bỏ đi. Khi tụt xuống đất, anh
bạn mới lắp bắp kể: Em xuống suối vo gạo, bổng nghe ùm một cái rõ to phía bờ
suối đối diện, nhìn lên đã thấy một cái đầu heo với đôi nanh cong vút, nhằm
thẳng em bơi tới, em vội chạy lại gốc cây vừa kịp leo lên, nó lao vào gốc cây
đến rầm một cái, rồi cứ đi vòng quang cây, thỉnh thoảng lại chồm lên như muốn
leo lên…
Đêm về khuya, trời trở lạnh. Lúc trưa Đoàn đến nhiệt
kế treo trong phòng khách chỉ 34 độ, còn bây giờ trùm chiếc chăn bông dày cộm,
tôi vẫn thấy lạnh. Ngoài sân, ánh trăng suông soi rõ những ngọn xoài lắc lư
theo ngọn gió. Gió ở đây mới đáng sợ làm sao, nó xô cây cối ào ào và lươt lên
mái tôn nghe loảng xoảng; cái lạnh như cũng len vào tận mang tai. Ngoài kia,
những người chiến sĩ Biên phòng vẫn thay nhau thức, chống chọi với cái rét, cái
gió và biết bao hiểm nguy rình rập. Không đến đây, nơi biên giới Tây Nam này sẽ
không thể chứng kiến sự khắc nghiệt của thời tiết nơi đây và khi đã đến chúng
ta mới khâm phục những con người đang bám trụ nơi đây. Vì sự bình yên của tổ
quốc, vì hạn phúc của mọi gia đình; các anh – Người chiến sĩ Biên Phòng vẫn
thức để bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI