Nhà văn
LÊ HUY THÀNH
Bút danh: HUY ĐẠI MINH.
Năm sinh: 9-1959
Quê Yên Định - Thanh Hóa
- Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Đắk Lắk
Nơi công tác: Bộ đội Biên phòng Đắk Lắk
Tác phẩm
- Tiếng chim tre vét
(Tập truyện, Nhà xuất bản QĐND - 2004).
- Mùa lá chín
(Thơ, Nhà xuất bản QĐND - 2007, giải khuyến khích Chư Yang Sin lần thứ I).
- Nhớ jam hăt
(Thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2010).
- Thọ lửa, bút
ký, giải nhì (không có giải nhất), cuộc thi sáng tác, truyện, ký do Bộ đội Biên
phòng Việt Nam
phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức, 2008 - 2009.
- Tuần tra- ảnh,
giải khuyến khích Triển lãm ảnh Thời sự - Nghệ thuật khu vực miền Trung- Tây
Nguyên lần thứ nhất, năm 1987.
NHỮNG NGÀY SAU CHIẾN TRANH
Mấy đêm nay, vừa chợp mắt được một tí thì ông
Hoàng lại mơ thấy toàn những chuyện đẩu đâu. Lúc thì thấy một bà lão tóc trắng
như hoa lau đang ngồi ngắm nhìn tấm hình đứa con trai của mình mà khóc lóc. Lúc
thì thấy một người đàn ông dáng cao dong dỏng, cứ đi qua đi lại trước đầu giường
mình nằm. Có lúc ông còn nghe rõ mồn một tiếng nói của ai đó như trách móc:
- Thời bình bây giờ. Các ông, ai nấy đều có
nhà cao, cửa rộng cả. Sướng lắm, còn nhớ ai chi nữa?
Ông Hoàng giật mình. Người vã mồ hôi. Tim đập
loạn xạ. Ai nhỉ? Ông mở mắt, ánh mắt ném ngược lên trần nhà trong đêm thăm thẳm.
Sáng ra, ông Hoàng kể lại chuyện đó cho bà Hà, vợ ông nghe và nói:
- Ông chỉ được cái dựng chuyện thôi.
- Thật mà! Tôi chưa bao giờ mơ thấy giấc mơ
lạ như thế cả. Người đó còn nói rõ đến cả tên của tôi: Hoàng này! Mày có biết tớ
là ai không? Mày có nhớ lần mày chia cho tớ miếng ổi rừng không? Quên tớ rồi sao? Thế là tôi bừng tỉnh, vẫn
nghe như tiếng bước chân còn đâu đây. Tôi không tin vào mình nữa bà nó ạ! Mà không
biết có điềm gì, lành, dữ, liệu có xảy ra không?
- Trên đời này làm gì có ma, quỉ. Ông chỉ được
lo hão thôi.
Ông Hoàng ngồi lặng im. Ông chia ổi rừng
cho ai nhỉ? Chuyện này chỉ có khi còn ở lính, nhưng mà thời ấy đã lâu lắm rồi.
Hay là đồng đội ông? Đồng đội ông thì tản mát hết. Người hy sinh, người về làm
dân thường, già lão cả rồi, chẳng còn ai nữa! “Chiến tranh xa lâu rồi. Sao con
không về với mẹ hả con?”. Câu nói của bà lão tóc bạc trong mơ lại vang lên. Không
lẽ nào, đồng đội của mình ư? Ông cố nhớ lại. Chia nhau miếng ổi rừng. Ai nhỉ?
Phút chậm chạp dần hiện về những hình ảnh về chiến trận. Ông buột miệng:
- Thằng Năm! Sao mình lại có thể quên nhanh
thế vậy?
Lần lạc trong rừng mùa khô. Ngụm nước tiểu
vàng khè của Năm đựng trong chiếc lá rừng đã cứu sống Hoàng. Trời ơi, sao mình
lại có thể quên nhanh vậy được? Những ngày lạc trong rừng, hai người chia nhau
quả ổi cầm hơi, Năm cứ nhường mãi, không nỡ cắn.
Rồi Năm hi sinh. Rồi giải phóng. Sau đó thì
mọi chuyện rối tung cả lên. Cuộc sống cuốn mọi người về phía trước. Những đồng đội
hi sinh nằm lại trên chiến trường xưa hoang lạnh! Trong số đó có Năm. Cả đêm hôm
đó, ông Hoàng nằm không ngủ được. Có lẽ, phải vào Tây Nguyên một chuyến mới được!
Bây giờ thì hãy còn tí sức khỏe, nhưng mai mốt chưa biết chừng đâu.
***
Hoàng dừng lại trước cổng ngôi nhà dài
ở gần cuối buôn. Bỗng một con cún đâu đó thính hơi ló đầu ra khỏi lô cà phê sủa
roách roách. Nghe có tiếng chó sủa, người đàn ông có nước da xám sạm,
mái tóc húi cua, đôi mắt to và hơi sâu, cặp lông mày hơi xếch, nom dữ tướng.
- Xin lỗi! Đây có phải nhà bác Y Ngăm không
ạ?
- Ai
mà lại hỏi Y Ngăm đấy?
Chủ nhà vừa nói vừa để ý tới người khách lạ,
có một vết sẹo to như chiếc đũa bên má trái, kéo dài xuống gần đến mang cằm. Ông
nói như reo lên:
- A..Mày…H..oàng..? Có phải mày là Hoàng không?
- Phải! Mình là Hoàng đây mà.
- Trời ơi! Hoàng thật hả?
Người chủ nhà ôm chầm lấy Hoàng, tay vỗ vỗ
vào vai người bạn chiến đấu năm xưa.
- Ôi! Lâu quá...Lâu quá rồi! Hoàng ơi! Thôi!
Ta lên nhà đi.
- Sao Hoàng biết được nhà mình ở đây mà
tìm chứ?
- Mình đến đây được là nhờ mấy ông ở cơ
quan Quân sự tỉnh chỉ đường cho đấy!
Ama Khăm vừa nói, tay vừa rót ly cà phê mời
Hoàng:
- Cà phê Buôn Ma Thuột ngon có tiếng đấy. Uống
đi!
Rồi ché rượu cần ủ lâu ngày, nay mới cú dịp
khui ra. Ama Khăm vui vẻ cột ché rượu ở giữa gian nhà đầu tiên trước khi bước vào
gian sau. Khi mọi người trong gia đình đó ngồi đâu vào đó, ama Khăm cắm phập cây
cần rượu chạm tới đáy ché rượu rồi trao cần rượu cho Hoàng. Vì Hoàng là người rất
quí trọng cuộc vui đêm nay.
Đêm rượu cần kéo dài rồi cũng đến lúc tan.
Mọi nguời phải chia tay nhau, ai về nhà nấy. Riêng chỉ có Hoàng là nghỉ lại. Đêm
đó, Hoàng nằm không ngủ được. Hoàng nhắm mắt, hình dung về Năm. Lúc đó Năm mới
chừng hai mốt, hai hai tuổi. Tính tình của Năm thì hay tếu táo. Ngày Năm mới về
đơn vị, cả tổ đội hành quân vượt dòng suối Ea Na. Hôm đó bất ngờ dòng nước lũ từ
phía đầu nguồn ập xuống. Năm đi sau cùng, chưa kịp lội vào bờ thì bị dòng
nước cuốn trôi. May có kinh nghiệm bơi lội nên mới thoát chết. Hoàng và
ama Khăm phải chạy dọc theo bờ suối, vấp ngã lên xuống toạc cả chân, mãi mới kéo
được Năm lên bờ. Hơn bốn chục năm rồi sao mà vẫn nhớ thế. Tội cho thằng Năm quá!
Trận ấy, cả tổ đội lội cắt cánh rừng cao su, tiến vào nội thị để thực hiện kế
hoạch tập kích, đánh vào khách sạn Hoa Đào, nơi mà sỹ quan Mĩ, Ngụy thường tập
trung hoan lạc ở đó. Khi đội hình của ta vừa lội tới bìa rừng thì đã nghe tiếng
con chim lợn đứng trên lùm cây cao phía trái dóng lên một hồi, đến sợ. Năm than
vãn:
- Đã là ba cái tết ở rừng rồi. Không
biết bao giờ mới được trở về quê ăn tết đây. Bao giờ mới gặp lại người yêu chứ?
Hoàng nhắc mọi người im lặng. Quan sát thận
trọng để chuẩn bị hành quân. Khi cả tổ đội vừa vượt qua con suối cạn, chớm tới
góc cua của con đường tắt hướng vào nội thị, thì bất ngờ bị địch nổ súng. Đội hình
của ta bị tan tác, mỗi người mỗi ngả. Hoàng bị thương vào đùi, đau nhức đến tận
óc. Chạy về được phía bên kia con suối, Hoàng nép người vào một gốc cây to, miệng
thở hổn hển:
- Chắc là cái thằng Sinh chỉ điểm rồi. Năm
băng lại vết thương cho Hoàng và nói:
- Tớ cũng đoán thế. Có thể thằng Sinh bị bắt,
nó đã khai báo với địch rồi! Nếu không, mấy chiếc L19 kia, bay trinh sát hoài vậy?
Lại mấy chiếc cán gáo nữa, cứ quần đi quần lại, quần nát cả cánh rừng rồi mà vẫn
chưa thôi?
Năm vừa nói dứt lời thì có tiếng loa chiêu
hồi. Rõ ràng là tiếng thằng Sinh. Khi những chiếc cán gáo vừa rời khỏi khu vực
này thì ở dưới mặt đất, lực lượng địch đã triển khai bao vây tạo thế gọng kìm và
mở rộng ra hai phía cánh gà, bịt kín các lỗ hổng, không cho quân ta thoát. Suốt
buổi sáng hôm đó, địch pháo kích cấp tập vào các mục tiêu của ta. Nhà cửa, kho
tàng bị đạn pháo giặc thiêu cháy trụi. Năm vừa rửa vết thương cho Hoàng vừa nhận
định:
- Sau trận càn này. Hẳn quân địch sẽ rút
theo con đường độc đạo đó. Nếu ta mai phục có thể tiêu diệt được nhiều sinh
lực địch.
Hoàng nghĩ, đề xuất của Năm cũng hay, nhưng
thực ra lúc này chưa phù hợp. Càng nghĩ về sự hy sinh mất mát của đồng đội
trong trận bị giặc phục kích vừa rồi là quá lớn. Với Năm cũng vậy. Càng nghĩ về
điều đó bao nhiêu thì Năm lại càng thương về thằng Khang bấy nhiờu. Mới hôm nào
Khang kiếm đâu được một củ mì to như cổ tay. Khang nướng chín rồi bẻ chia cho Năm
phần nhiều. Khang bảo: Cậu to con hơn tớ nên chia cho cậu phần nhiều. Thế mà cách
đây có mây hôm thôi. Giờ đây Khang đã đi xa rồi! Nghĩ đến cái chết oan uổng của
đồng đội. Tự dưng máu trong người Năm cứ sôi lên. Bỗng Năm vụt phắt dậy, xách
khẩu B40 và mang theo cả mấy trái thủ pháo tự tạo bằng thuốc bom của đich, rồi
lặng lẽ rời khỏi đơn vị.
Đêm sập xuống cánh rừng, khiến cho việc đi
lại rất khó khăn. Năm men theo con suối cạn, vượt lên một bãi trống ngước mắt
nhìn sao để cắt hướng tới vị trí mật phục. Trời càng vào khuya càng lạnh. Năm
ngồi dưới một hố bom sâu hoắm sát ven đường chờ cho tới sáng. Đã xế chiều rồi
mà vẫn chưa thấy bọn địch trở về. Chả lẽ bọn chúng lại đổi hướng..? Năm vừa nhủ
thầm vừa đưa tay vạch khóm lá ngành ngạnh đỏ tía để quan sát. Bỗng có tiếng động
cơ ô- tô. Năm tập trung cao độ, mắt dõi về phía chiếc xe Jeép vừa dừng lại sát
bìa rừng. Hẳn bọn địch đang thu quân trở về. Năm dán mắt dõi theo một tên giặc
cao to, đi sau một tên khác là một tên có dáng người thấp đậm. Chính xác rồi. Nó
là thằng Sinh. Cái thằng phản bội. Mà sao nó lại quái gở thế chứ?
Như có linh cảm gì đó, thằng cao to kia nhắc
nhở toán lính:
- Chúng bay hãy cảnh giác đó. Cứ túm tụm lại.
Coi chừng Việt cộng nó thịt cả nút. Tên chỉ huy kia vừa núi dứt lời, tức thì một
tiếng B40 nổ xé tai...ba bốn tên gục ngay tại chỗ. Bọn địch bị tấn công bất ngờ,
cả đám hoảng loạn, thần hồn nát thần tính. Năm nhìn rõ mồn một thằng chỉ huy bị
thương, miệng kêu la ô ố. Hắn chửi thằng Sinh láo toét, là phản bội đã đưa
hắn vào rọ của Việt cộng. Đi phía sau tên chỉ huy là viên sỹ quan Mĩ, hắn nhìn
thấy Sinh đang lồm cồm nhổm dậy định chạy. Sắc mặt viên sỹ quan Mĩ đỏ gay, hai
con mắt của hắn xanh lè, bỗng chốc chuyển sang màu đỏ dại. Viên sỹ quan Mĩ kia
nghi thằng Sinh đã phản bội. Lập tức, hắn rút khẩu côn. Xiết cò...viên thứ nhất
trượt, viên thứ hai chính xác. Sinh lảo đảo rồi gục ngay tại chỗ. Lợi dụng lúc
quân địch đang hoảng loạn, Năm nhanh chóng lao thẳng vào trong rừng. Bọn địch xốc
lại tinh thần, dốc sức đuổi theo hòng bắt
sống bằng được Năm để trị tội. Nhưng Năm vẫn kiên quyết không để sa vào tay giặc.
Năm chạy rất nhanh, nhanh hơn cả cơn lốc đại ngàn. Không hiểu sao, lúc này Năm
cảm thấy mình lại có sức mạnh thần kỳ đến thế! Phăng phăng trên cỏ mà quên đi
những ngọn le, tay gai cào cấu. Vừa ngoặt hết khúc đường cua, rẽ trái thì Năm bắt
gặp một đám người đang rồng rềnh nhảy múa theo tiếng chiêng phống phống. Năm
giật mình chững lại. Nhìn thấy Năm, Ama Siêu nhận ra ngay người chiến sỹ đeo
chiếc vòng tay quen thuộc. Ngày Năm chuyển địa điểm rời khỏi buôn lên núi, già
làng ama Siêu đã tổ chức đêm rượu cần kết nghĩa tặng cho Năm một chiếc vòng đồng
đó, để mỗi khi buồn, vui lại nhớ về buôn làng. Tình hình nguy kịch lắm rồi. Phía
sau lưng Năm, quân địch đang hò hét, hướng về phía có đám ma. Trong những lúc
gay go như thế này thì già ama Siêu luôn tỏ ra rất bình tĩnh. Già nghĩ ngay ra
kế. Giá ra hiệu cho mọi người nhanh chóng lăn xuống hai đầu hố của hốc huyệt, mỗi
đầu hố một hòn đá to như cái thùng gánh nước rồi hối thúc Năm nhảy xuống. Tức khắc
chiếc quan tài nặng chịch kia cũng nhanh chóng được hạ xuống đè chận lên người
Năm. Toán lính vội vàng, rầm rập khẩn trương từ phía rừng le lao tới bao vây, lùng
sục, chúng kéo, lật mặt từng người trong đám người đông để tìm kiếm Năm có
thể trà trộn trong đó. Tìm một lúc lâu, bọn chúng không phát hiện thấy Năm, buộc
phải lui trở về.
Chiều. Mặt trời đã đỏ đậm, già làng Ama Siêu
vừa cúng ma cho người chết vừa để kéo dài thời gian, chờ cho quân địch rút
hết rồi mới cho người nâng chiếc quan tài lên khỏi mặt đất cứu Năm. Cảm ơn
đồng bào. Năm lại băng rừng lội suối tìm về đơn vị. Nhưng, vừa ra khỏi cánh rừng
thì Năm đạp phải mìn của giặc cài lại. Người chiến sĩ quả cảm nằm lại trên mảnh
đất Tây Nguyên kiên cường kia...
***
Y Khăm vừa mới bổ được vài chục nhát cuốc
thì lưỡi cuốc vấp trúng phải một hòn đá xanh to bằng nắm tay, toé lửa. Bất
thình lình, một con rắn ma loang lổ trắng, đen vọt ra khỏi hang, khiến Y’Khăm
giật nảy người. Con rắn loằng ngoằng phóng thẳng lên bờ, lao xuống phía con
suối cạn trước mặt. Đào sâu xuống thêm một lớp đất nữa thì Y’Khăm bắt gặp rễ
của cây duối dại to bằng cổ tay xuyên ngang phần mộ. Y’Khăm vung con dao chặt đứt
cái rễ cây, quẳng lên bờ. Cái gì thế này? Mảnh kim loại to bằng hai ngón tay người
lớn. Y’Khăm cẩn thận nhặt lên ngắm nghía kỹ rồi đưa cho Hoàng. Ông Hoàng lau
chiếc kính, căng mắt đọc dòng chữ nhỏ xíu khắc trên mảnh kim loại và nhớ lại. Lần
đó, cả tổ đội đi phục kích chống địch đi càn. Khi tắt qua khu rừng vắng trở về,
Sinh nhặt được một mảnh kim loại của xác máy bay trực thăng Mĩ bị ta bắn hạ.
Sinh mang về mài, dũa làm vật kỷ niệm và khắc tên người yêu lên đó. Đi đâu Sinh
cũng mang theo. Hoàng cầm miếng kim loại đó trên tay rồi quay sang nói với Ama
Khăm.
- Nhầm rồi ama Khăm à! Không phải là mộ của
Năm!
- Không phải của Năm thì là mộ của ai vậy?
Giọng ông Hoàng buồn buồn rầu.
- Mộ của thằng...thằng Sinh!
Nghe nói đến thằng Sinh, ama Khăm tức đến lộn
ruột. Ama Khăm cắm phập chiếc xẻng xuống đất. Người cần tìm thì chẳng thấy.
Người không cần tìm thì lại thấy! Thôi! Khỏi đào!
Biết là ama Khăm đang bực tức. Ông Hoàng kiềm chế.
- Thôi ama Khăm à! Đừng bực tức nữa. Đã đào
rồi. Sao lại dừng thế? ở đời có ai muốn thế đâu! Dẫu sao đi nữa thì thằng Sinh
cũng đã chết rồi. Người chết còn biết gì nữa đâu mà oán trách người ta.
Ama Khăm khẽ dựa cán cuốc vào ngực, mắt nhìn
xuống phần mộ của Sinh.
- Thế đào nó lên rồi bỏ nó ở đây sao?
- Ama Khăm yên tâm đi. Tui sẽ có cách…
Ama Khăm lau những giọt mồ hôi trên trán rồi
đào tiếp.
***
Suốt mấy ngày liền, ông Hoàng leo trèo, lội
khắp dọc ngang cả mấy quả đồi. Gối đã mỏi nhừ mà tìm kiếm vẫn chưa thấy tung tích
gì về phần mộ của Năm. Nhìn mặt mũi của ông Hoàng hốc hác, ama Khăm, nói:
- Thôi. Nghỉ đi anh Hoàng. Ngày mai ta tiếp
tục đi tìm.
Vất vả lắm rồi cũng thành công. Tìm kiếm mãi
rồi cũng thấy nơi an nghỉ của Năm. Hôm đó, mọi người trong buôn mừng vui kéo đến
rất đông, họ đến chúc mừng sức khỏe và mừng cho Hoàng đã tìm được mộ của đồng
đội. Ama Khăm chủ động rút từ trong ché rượu cần ra một ly thủy tinh to chừng nửa
lít. Hoàng nhìn ly nước cốt rượu cần vàng như mật ong, thơm ngon và ngọt lịm.
Ama Khăm nói với Hoàng:
- Công việc đã ổn rồi! Đêm nay Hoàng phải uống
rượu thật nhiệt tình nhé! Uống hết mình thì bà con trong buôn mới vui đó!
Hoàng nâng ly rượu cần mà lòng vui khôn tả.
Hoàng vừa đặt chiếc ly xuống chiếu thì Y’Khăm ngồi bên bếp lửa nở nụ cười hồn
nhiên nói sang:
- Bác Hoàng ơi! Bác trở về quê đừng quên thằng
Y’Khăm đào phải con rắn ma đó nhé!
- Cảm ơn Y’Khăm! Bác Hoàng không quên Y’Khăm
và mọi người trong buôn Chư Jú đâu.
***
Chuyến xe khách Buôn Ma Thuột- Thái Bình chạy
xuyên đêm, thấu sáng. Ngồi trên xe ông Hoàng dõi mắt qua ô cửa kính, hai bên đường
nhà cửa mọc lên sat sát, rồi những cánh đồng lúa phì nhiêu của thời kỳ đổi mới ấm
no và thanh bình cứ hiện lên như một thước phim mở ra. Chiếc xe càng tiến về phía
trước bao nhiêu thì những hình ảnh mới lại được hiện ra, đẩy lùi những hình ảnh
cũ dồn lại phía sau. Xe chạy tới mảnh đất xứ Nghệ thì trời bắt đầu hừng sáng. Mặt
trời từ phía đông đang từ từ ngoi lên đỏ ối. Có lẽ bà Ngà, mẹ của Năm, giờ này đang
nóng ruột lắm. Khi Hoàng vừa chớm chân đến đầu cổng thì mọi người từ trong sân
nhà bà Ngà đã đổ ào ra đón Năm. Tiếp sau đó là những tiếng ồn ào hòa lẫn tiếng
khóc om sòm của cả một khu xóm. Tiếng khóc khô như ngói vỡ. Điều ông Hoàng không
ngờ là trong đám đông đến dự hôm đó có cả bà Bốn, mẹ của Sinh. Bà chống gậy đi
từ xã bên qua, đứng trân trối giữa sân nhìn mọi người rồi chợt nấc nghẹn:
- Sinh..Sinh ơi! Thằng Năm nó đã trở về.
Sao con không theo nó về với mẹ hả Sinh?
Mọi người đến dự buổi lễ truy điệu hôm đó, đứng
chung quanh, ai nấy cũng đều xúc động. Ông Hoàng không dám nhìn vào gương mặt
già nua đầy đau khổ ấy. Ông trưởng ban lễ tang bắt đầu đọc bài điếu, giọng ông
lúc đầu còn trầm ấm và dõng dạc, nhưng càng đọc về sau giọng ông càng lạc đi.
***
Đưa được hài cốt của Năm trở về quê, ông
Hoàng cảm thấy lòng mình trở nên thanh thản. Nhưng sự thanh thản đó vẫn chưa thể
nào nguôi. Cứ hễ mỗi khi ông vừa chợp mắt được tí thì ông lại thấy thằng Sinh
xuất hiện. Ông Hoàng nhìn rõ dáng thằng Sinh thấp, đậm. Hắn để bộ ria mép chĩa
dài tua tủa, đôi mắt của hắn mở to và hơi sâu, hắn khúm núm tiến lại gần van
xin Hoàng tha lỗi cho nó. Hoàng vừa thương nơ, vừa bực mình.
- Mày là cái thằng hèn nhát. Lúc sống thì
chẳng phân biệt để mà làm những điều tốt lành, giờ thì còn lỗi với lầm gì nữa!
Thấy Hoàng đang bực tức, Sinh bèn lủi thủi
bỏ đi về phía nơi quả đồi đang vùi trong màn sương…
- Có chuyện gì mà ông trăn trở thế?
Ông Hoàng chậm rãi nói với vợ:
- Từ ngày ở Tây Nguyên trở về, đêm nào tôi
cũng thấy thằng Sinh hiện về bà nó ạ! Nó khóc lóc, van xin tôi tha tội cho nó,
và xin tôi dẫn đường cho nó về với mẹ nó. Khổ thật! Nếu để nó nằm lại trong đó,
tôi thấy không yên tâm tí nào. Thôi thì bà để cho tôi vào đó một lần nữa đi, tôi
sẽ đưa thằng Sinh về cho bà Bốn gặp lại nó, rồi bà Bốn có chết đi thì mình cũng
an lòng, bà nó! Ông Hoàng vừa ngưng lời thì người vợ hỏi luôn.
- Nãy giờ tôi nghe ông nói thằng Sinh có tội,
có lỗi gì thế hả ông?
Biết chẳng giấu diếm được, ông bèn kể lại đầu
đuôi câu chuyện cho người vợ nghe. Ông Hoàng vừa ngưng câu chuyện thì bà Hà tự
dưng nổi nóng. Máu trong người bà bắt đầu sôi lên. Hai tai bà đỏ tía.
- Cái thằng, đã phản bội lại đồng đội, nó còn
khai báo cho giặc giết hại đồng đội ông, vậy mà ông còn thương tiếc gì chứ? Không
có tìm tiếc chi cả.
- Ấy chết! Bà đừng nóng! Sao bà lại cáu gắt
với tôi? Ở đời có ai muốn thế đâu. Vì chiến tranh cả thôi! Vì bọn giặc ngoại
bang cả thôi! Nhưng dù sao trời cũng có mắt, trời đã bắt thằng Sinh phải trả giá
rồi đó mà. Thật tội cho bà bà Bốn! Bà Bốn đã sát đất xa trời rồi. Tôi thà không
biết thằng Sinh thì thôi. Giờ đã biết rồi, để nó nằm lại đó tôi không hề yên tâm
đâu.
Nãy giờ bà Hà ngồi im lặng. Bà nghe người
chồng nói có tình có lý, khiến bà nguôi mau cơn tức giận. Mái tóc của bà Bốn rối
bù như một mớ bòng bong đã chuyển sang màu trắng đục. Gương mặt của bà, thời
gian đã vẽ chằng chịt những rãnh cày ngang, dọc. Dáng người gầy hom của bà khô đét
dần đi. Nghĩ vậy. Tự dưng bà Hà cảm thấy mủi lòng. Bà Hà đưa tay quệt những
giọt nước mắt đang lăn dài trên má. Tội cho bà Bốn! Bà Bốn mà biết được chuyện
thằng Sinh chạy theo giặc, hẳn bà ấy sẽ chết mất! Bà Hà nghĩ rồi quay sang hỏi
chồng:
- Thế hôm nào ông đi?
- Ngày mai bà nó ạ!