Thứ Tư, 6 tháng 1, 2016

GIỚI THIỆU CHƯ YANG SIN SỐ 280 - GIỚI THIỆU HỘI VIÊN


Nhà văn LÊ HUY THÀNH

Bút danh: HUY ĐẠI MINH.
Năm sinh: 9-1959
Quê Yên Định - Thanh Hóa
- Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Đắk Lắk
Nơi công tác: Bộ đội Biên phòng Đắk Lắk
Tác phẩm
- Tiếng chim tre vét (Tập truyện, Nhà xuất bản QĐND - 2004).
- Mùa lá chín (Thơ, Nhà xuất bản QĐND - 2007, giải khuyến khích Chư Yang Sin lần thứ I).
- Nhớ jam hăt (Thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2010).
- Thọ lửa, bút ký, giải nhì (không có giải nhất), cuộc thi sáng tác, truyện, ký do Bộ đội Biên phòng Việt Nam phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức, 2008 - 2009.

- Tuần tra- ảnh, giải khuyến khích Triển lãm ảnh Thời sự - Nghệ thuật khu vực miền Trung- Tây Nguyên lần thứ nhất, năm 1987.
NHỮNG NGÀY SAU CHIẾN TRANH



Mấy đêm nay, vừa chợp mắt được một tí thì ông Hoàng lại mơ thấy toàn những chuyện đẩu đâu. Lúc thì thấy một bà lão tóc trắng như hoa lau đang ngồi ngắm nhìn tấm hình đứa con trai của mình mà khóc lóc. Lúc thì thấy một người đàn ông dáng cao dong dỏng, cứ đi qua đi lại trước đầu giường mình nằm. Có lúc ông còn nghe rõ mồn một tiếng nói của ai đó như trách móc:
- Thời bình bây giờ. Các ông, ai nấy đều có nhà cao, cửa rộng cả. Sướng lắm, còn nhớ ai chi nữa?
Ông Hoàng giật mình. Người vã mồ hôi. Tim đập loạn xạ. Ai nhỉ? Ông mở mắt, ánh mắt ném ngược lên trần nhà trong đêm thăm thẳm. Sáng ra, ông Hoàng kể lại chuyện đó cho bà Hà, vợ ông nghe và nói:
- Ông chỉ được cái  dựng chuyện thôi.
- Thật mà! Tôi chưa bao giờ mơ thấy giấc mơ lạ như thế cả. Người đó còn nói rõ đến cả tên của tôi: Hoàng này! Mày có biết tớ là ai không? Mày có nhớ lần mày chia cho tớ miếng ổi rừng không?  Quên tớ rồi sao? Thế là tôi bừng tỉnh, vẫn nghe như tiếng bước chân còn đâu đây. Tôi không tin vào mình nữa bà nó ạ! Mà không biết có điềm gì, lành, dữ, liệu có xảy ra không?
- Trên đời này làm gì có ma, quỉ. Ông chỉ được lo hão thôi.
Ông Hoàng ngồi lặng im. Ông chia ổi rừng cho ai nhỉ? Chuyện này chỉ có khi còn ở lính, nhưng mà thời ấy đã lâu lắm rồi. Hay là đồng đội ông? Đồng đội ông thì tản mát hết. Người hy sinh, người về làm dân thường, già lão cả rồi, chẳng còn ai nữa! “Chiến tranh xa lâu rồi. Sao con không về với mẹ hả con?”. Câu nói của bà lão tóc bạc trong mơ lại vang lên. Không lẽ nào, đồng đội của mình ư? Ông cố nhớ lại. Chia nhau miếng ổi rừng. Ai nhỉ? Phút chậm chạp dần hiện về những hình ảnh về chiến trận. Ông buột miệng:
- Thằng Năm! Sao mình lại có thể quên nhanh thế vậy?
Lần lạc trong rừng mùa khô. Ngụm nước tiểu vàng khè của Năm đựng trong chiếc lá rừng đã cứu sống Hoàng. Trời ơi, sao mình lại có thể quên nhanh vậy được? Những ngày lạc trong rừng, hai người chia nhau quả ổi cầm hơi, Năm cứ nhường mãi, không nỡ cắn.
Rồi Năm hi sinh. Rồi giải phóng. Sau đó thì mọi chuyện rối tung cả lên. Cuộc sống cuốn mọi người về phía trước. Những đồng đội hi sinh nằm lại trên chiến trường xưa hoang lạnh! Trong số đó có Năm. Cả đêm hôm đó, ông Hoàng nằm không ngủ được. Có lẽ, phải vào Tây Nguyên một chuyến mới được! Bây giờ thì hãy còn tí sức khỏe, nhưng mai mốt chưa biết chừng đâu.
***
Hoàng dừng lại tr­­­­­­­ước cổng ngôi nhà dài ở gần cuối buôn. Bỗng một con cún đâu đó thính hơi ló đầu ra khỏi lô cà phê sủa roách roách. Nghe có tiếng chó sủa, người đàn ông có n­­­­­­­­­­ước da xám sạm, mái tóc húi cua, đôi mắt to và hơi sâu, cặp lông mày hơi xếch, nom dữ tướng.
- Xin lỗi! Đây có phải nhà bác Y Ngăm không ạ?
-  Ai mà lại hỏi Y Ngăm đấy?
Chủ nhà vừa nói vừa để ý tới người khách lạ, có một vết sẹo to như chiếc đũa bên má trái, kéo dài xuống gần đến mang cằm. Ông nói nh­­­­­ư reo lên:
- A..Mày…H..oàng..? Có phải  mày là Hoàng không?
- Phải! Mình là Hoàng đây mà.
- Trời ơi! Hoàng thật hả?
Người chủ nhà ôm chầm lấy Hoàng, tay vỗ vỗ vào vai người bạn chiến đấu năm xưa.
- Ôi! Lâu quá...Lâu quá rồi! Hoàng ơi! Thôi! Ta lên nhà đi.
- Sao Hoàng biết đ­­­­­ược nhà mình ở đây mà tìm chứ?
- Mình đến đây được là nhờ mấy ông ở cơ quan Quân sự tỉnh chỉ đường cho đấy!
Ama Khăm vừa nói, tay vừa rót ly cà phê mời Hoàng:
- Cà phê Buôn Ma Thuột ngon có tiếng đấy. Uống đi!
Rồi ché rượu cần ủ lâu ngày, nay mới cú dịp khui ra. Ama Khăm vui vẻ cột ché rượu ở giữa gian nhà đầu tiên trước khi bước vào gian sau. Khi mọi người trong gia đình đó ngồi đâu vào đó, ama Khăm cắm phập cây cần rượu chạm tới đáy ché rượu rồi trao cần rượu cho Hoàng. Vì Hoàng là người rất quí trọng cuộc vui đêm nay.
Đêm rượu cần kéo dài rồi cũng đến lúc tan. Mọi nguời phải chia tay nhau, ai về nhà nấy. Riêng chỉ có Hoàng là nghỉ lại. Đêm đó, Hoàng nằm không ngủ được. Hoàng nhắm mắt, hình dung về Năm. Lúc đó Năm mới chừng hai mốt, hai hai tuổi. Tính tình của Năm thì hay tếu táo. Ngày Năm mới về đơn vị, cả tổ đội hành quân vượt dòng suối Ea Na. Hôm đó bất ngờ dòng nước lũ từ phía đầu nguồn ập xuống. Năm đi sau cùng, ch­­­­­­ưa kịp lội vào bờ thì bị dòng n­­­­­ước cuốn trôi. May có kinh nghiệm bơi lội nên mới thoát chết. Hoàng và ama Khăm phải chạy dọc theo bờ suối, vấp ngã lên xuống toạc cả chân, mãi mới kéo được Năm lên bờ. Hơn bốn chục năm rồi sao mà vẫn nhớ thế. Tội cho thằng Năm quá! Trận ấy, cả tổ đội lội cắt cánh rừng cao su, tiến vào nội thị để thực hiện kế hoạch tập kích, đánh vào khách sạn Hoa Đào, nơi mà sỹ quan Mĩ, Ngụy thường tập trung hoan lạc ở đó. Khi đội hình của ta vừa lội tới bìa rừng thì đã nghe tiếng con chim lợn đứng trên lùm cây cao phía trái dóng lên một hồi, đến sợ. Năm than vãn:
- Đã là ba cái tết ở rừng rồi. Không biết bao giờ mới được trở về quê ăn tết đây. Bao giờ mới gặp lại người yêu chứ?
Hoàng nhắc mọi người im lặng. Quan sát thận trọng để chuẩn bị hành quân. Khi cả tổ đội vừa vượt qua con suối cạn, chớm tới góc cua của con đường tắt hướng vào nội thị, thì bất ngờ bị địch nổ súng. Đội hình của ta bị tan tác, mỗi người mỗi ngả. Hoàng bị thương vào đùi, đau nhức đến tận óc. Chạy về được phía bên kia con suối, Hoàng nép người vào một gốc cây to, miệng thở hổn hển:
- Chắc là cái thằng Sinh chỉ điểm rồi. Năm băng lại vết thương cho Hoàng và nói:
- Tớ cũng đoán thế. Có thể thằng Sinh bị bắt, nó đã khai báo với địch rồi! Nếu không, mấy chiếc L19 kia, bay trinh sát hoài vậy? Lại mấy chiếc cán gáo nữa, cứ quần đi quần lại, quần nát cả cánh rừng rồi mà vẫn chưa thôi?
Năm vừa nói dứt lời thì có tiếng loa chiêu hồi. Rõ ràng là tiếng thằng Sinh. Khi những chiếc cán gáo vừa rời khỏi khu vực này thì ở dưới mặt đất, lực lượng địch đã triển khai bao vây tạo thế gọng kìm và mở rộng ra hai phía cánh gà, bịt kín các lỗ hổng, không cho quân ta thoát. Suốt buổi sáng hôm đó, địch pháo kích cấp tập vào các mục tiêu của ta. Nhà cửa, kho tàng bị đạn pháo giặc thiêu cháy trụi. Năm vừa rửa vết thương cho Hoàng vừa nhận định:
- Sau trận càn này. Hẳn quân địch sẽ rút theo con đường độc đạo đó. Nếu ta mai phục có thể tiêu diệt đ­­­­ược nhiều sinh lực địch.
Hoàng nghĩ, đề xuất của Năm cũng hay, nh­­­ưng thực ra lúc này chưa phù hợp. Càng nghĩ về sự hy sinh mất mát của đồng đội trong trận bị giặc phục kích vừa rồi là quá lớn. Với Năm cũng vậy. Càng nghĩ về điều đó bao nhiêu thì Năm lại càng thương về thằng Khang bấy nhiờu. Mới hôm nào Khang kiếm đâu được một củ mì to như cổ tay. Khang nướng chín rồi bẻ chia cho Năm phần nhiều. Khang bảo: Cậu to con hơn tớ nên chia cho cậu phần nhiều. Thế mà cách đây có mây hôm thôi. Giờ đây Khang đã đi xa rồi! Nghĩ đến cái chết oan uổng của đồng đội. Tự dưng máu trong người Năm cứ sôi lên. Bỗng Năm vụt phắt dậy, xách khẩu B40 và mang theo cả mấy trái thủ pháo tự tạo bằng thuốc bom của đich, rồi lặng lẽ rời khỏi đơn vị.
Đêm sập xuống cánh rừng, khiến cho việc đi lại rất khó khăn. Năm men theo con suối cạn, vượt lên một bãi trống ngước mắt nhìn sao để cắt hướng tới vị trí mật phục. Trời càng vào khuya càng lạnh. Năm ngồi d­­ưới một hố bom sâu hoắm sát ven đường chờ cho tới sáng. Đã xế chiều rồi mà vẫn chưa thấy bọn địch trở về. Chả lẽ bọn chúng lại đổi hướng..? Năm vừa nhủ thầm vừa đ­­ưa tay vạch khóm lá ngành ngạnh đỏ tía để quan sát. Bỗng có tiếng động cơ ô- tô. Năm tập trung cao độ, mắt dõi về phía chiếc xe Jeép vừa dừng lại sát bìa rừng. Hẳn bọn địch đang thu quân trở về. Năm dán mắt dõi theo một tên giặc cao to, đi sau một tên khác là một tên có dáng người thấp đậm. Chính xác rồi. Nó là thằng Sinh. Cái thằng phản bội. Mà sao nó lại quái gở thế chứ?
Như có linh cảm gì đó, thằng cao to kia nhắc nhở toán lính:
- Chúng bay hãy cảnh giác đó. Cứ túm tụm lại. Coi chừng Việt cộng nó thịt cả nút. Tên chỉ huy kia vừa núi dứt lời, tức thì một tiếng B40 nổ xé tai...ba bốn tên gục ngay tại chỗ. Bọn địch bị tấn công bất ngờ, cả đám hoảng loạn, thần hồn nát thần tính. Năm nhìn rõ mồn một thằng chỉ huy bị thương, miệng kêu la ô ố. Hắn chửi thằng Sinh láo toét, là phản bội đ­ã đ­­­­ưa hắn vào rọ của Việt cộng. Đi phía sau tên chỉ huy là viên sỹ quan Mĩ, hắn nhìn thấy Sinh đang lồm cồm nhổm dậy định chạy. Sắc mặt viên sỹ quan Mĩ đỏ gay, hai con mắt của hắn xanh lè, bỗng chốc chuyển sang màu đỏ dại. Viên sỹ quan Mĩ kia nghi thằng Sinh đã phản bội. Lập tức, hắn rút khẩu côn. Xiết cò...viên thứ nhất trượt, viên thứ hai chính xác. Sinh lảo đảo rồi gục ngay tại chỗ. Lợi dụng lúc quân địch đang hoảng loạn, Năm nhanh chóng lao thẳng vào trong rừng. Bọn địch xốc lại tinh thần, dốc sức  đuổi theo hòng bắt sống bằng được Năm để trị tội. Nhưng Năm vẫn kiên quyết không để sa vào tay giặc. Năm chạy rất nhanh, nhanh hơn cả cơn lốc đại ngàn. Không hiểu sao, lúc này Năm cảm thấy mình lại có sức mạnh thần kỳ đến thế! Phăng phăng trên cỏ mà quên đi những ngọn le, tay gai cào cấu. Vừa ngoặt hết khúc đường cua, rẽ trái thì Năm bắt gặp một đám ng­­­­ười đang rồng rềnh nhảy múa theo tiếng chiêng phống phống. Năm giật mình chững lại. Nhìn thấy Năm, Ama Siêu nhận ra ngay người chiến sỹ đeo chiếc vòng tay quen thuộc. Ngày Năm chuyển địa điểm rời khỏi buôn lên núi, già làng ama Siêu đã tổ chức đêm rượu cần kết nghĩa tặng cho Năm một chiếc vòng đồng đó, để mỗi khi buồn, vui lại nhớ về buôn làng. Tình hình nguy kịch lắm rồi. Phía sau lưng Năm, quân địch đang hò hét, hướng về phía có đám ma. Trong những lúc gay go như thế này thì già ama Siêu luôn tỏ ra rất bình tĩnh. Già nghĩ ngay ra kế. Giá ra hiệu cho mọi người nhanh chóng lăn xuống hai đầu hố của hốc huyệt, mỗi đầu hố một hòn đá to nh­ư cái thùng gánh nước rồi hối thúc Năm nhảy xuống. Tức khắc chiếc quan tài nặng chịch kia cũng nhanh chóng được hạ xuống đè chận lên người Năm. Toán lính vội vàng, rầm rập khẩn trương từ phía rừng le lao tới bao vây, lùng sục, chúng kéo, lật mặt từng ng­­­­ười trong đám người đông để tìm kiếm Năm có thể trà trộn trong đó. Tìm một lúc lâu, bọn chúng không phát hiện thấy Năm, buộc phải lui trở về.
Chiều. Mặt trời đã đỏ đậm, già làng Ama Siêu vừa cúng ma cho ng­­­­ười chết vừa để kéo dài thời gian, chờ cho quân địch rút hết rồi mới cho ng­­­­ười nâng chiếc­ quan tài lên khỏi mặt đất cứu Năm. Cảm ơn đồng bào. Năm lại băng rừng lội suối tìm về đơn vị. Nhưng, vừa ra khỏi cánh rừng thì Năm đạp phải mìn của giặc cài lại. Người chiến sĩ quả cảm nằm lại trên mảnh đất Tây Nguyên kiên cường kia...
***
Y Khăm vừa mới bổ được vài chục nhát cuốc thì lưỡi cuốc vấp trúng phải một hòn đá xanh to bằng­­­­ nắm tay, toé lửa. Bất thình lình, một con rắn ma loang lổ trắng, đen vọt ra khỏi hang, khiến Y’Khăm giật nảy ng­­­­ười. Con rắn loằng ngoằng phóng thẳng lên bờ, lao xuống phía con suối cạn tr­­­­ước mặt. Đào sâu xuống thêm một lớp đất nữa thì Y’Khăm bắt gặp rễ của cây duối dại to bằng cổ tay xuyên ngang phần mộ. Y’Khăm vung con dao chặt đứt cái rễ cây, quẳng lên bờ. Cái gì thế này? Mảnh kim loại to bằng hai ngón tay ng­­­­­­­­­­ười lớn. Y’Khăm cẩn thận nhặt lên ngắm nghía kỹ rồi đưa cho Hoàng. Ông Hoàng lau chiếc kính, căng mắt đọc dòng chữ nhỏ xíu khắc trên mảnh kim loại và nhớ lại. Lần đó, cả tổ đội đi phục kích chống địch đi càn. Khi tắt qua khu rừng vắng trở về, Sinh nhặt được một mảnh kim loại của xác máy bay trực thăng Mĩ bị ta bắn hạ. Sinh mang về mài, dũa làm vật kỷ niệm và khắc tên người yêu lên đó. Đi đâu Sinh cũng mang theo. Hoàng cầm miếng kim loại đó trên tay rồi quay sang nói với Ama Khăm.
- Nhầm rồi ama Khăm à! Không phải là mộ của Năm!
- Không phải của Năm thì là mộ của ai vậy?
Giọng ông Hoàng buồn buồn rầu.
- Mộ của thằng...thằng Sinh!
Nghe nói đến thằng Sinh, ama Khăm tức đến lộn ruột. Ama Khăm cắm phập chiếc xẻng xuống đất. Ng­­­­ười cần tìm thì chẳng thấy. Ng­ười không cần tìm thì lại thấy! Thôi! Khỏi đào!
Biết là ama Khăm đang bực tức. Ông Hoàng kiềm chế.
- Thôi ama Khăm à! Đừng bực tức nữa. Đã đào rồi. Sao lại dừng thế? ở đời có ai muốn thế đâu! Dẫu sao đi nữa thì thằng Sinh cũng đã chết rồi. Người chết còn biết gì nữa đâu mà oán trách người ta.
Ama Khăm khẽ dựa cán cuốc vào ngực, mắt nhìn xuống phần mộ của Sinh.
- Thế đào nó lên rồi bỏ nó ở đây sao?
- Ama Khăm yên tâm đi. Tui sẽ có cách…
Ama Khăm lau những giọt mồ hôi trên trán rồi đào tiếp.
***
Suốt mấy ngày liền, ông Hoàng leo trèo, lội khắp dọc ngang cả mấy quả đồi. Gối đã mỏi nhừ mà tìm kiếm vẫn chưa thấy tung tích gì về phần mộ của Năm. Nhìn mặt mũi của ông Hoàng hốc hác, ama Khăm, nói:
- Thôi. Nghỉ đi anh Hoàng. Ngày mai ta tiếp tục đi tìm.
Vất vả lắm rồi cũng thành công. Tìm kiếm mãi rồi cũng thấy nơi an nghỉ của Năm. Hôm đó, mọi người trong buôn mừng vui kéo đến rất đông, họ đến chúc mừng sức khỏe và mừng cho Hoàng đã tìm đ­­­­ược mộ của đồng đội. Ama Khăm chủ động rút từ trong ché rượu cần ra một ly thủy tinh to chừng nửa lít. Hoàng nhìn ly nước cốt rượu cần vàng như mật ong, thơm ngon và ngọt lịm. Ama Khăm nói với Hoàng:
- Công việc đã ổn rồi! Đêm nay Hoàng phải uống rượu thật nhiệt tình nhé! Uống hết mình thì bà con trong buôn mới vui đó!
Hoàng nâng ly r­ượu cần mà lòng vui khôn tả. Hoàng vừa đặt chiếc ly xuống chiếu thì Y’Khăm ngồi bên bếp lửa nở nụ c­­­­ười hồn nhiên nói sang:
- Bác Hoàng ơi! Bác trở về quê đừng quên thằng Y’Khăm đào phải con rắn ma đó nhé!
- Cảm ơn Y’Khăm! Bác Hoàng không quên Y’Khăm và mọi người trong buôn Chư Jú đâu.
***
Chuyến xe khách Buôn Ma Thuột- Thái Bình chạy xuyên đêm, thấu sáng. Ngồi trên xe ông Hoàng dõi mắt qua ô cửa kính, hai bên đường nhà cửa mọc lên sat sát, rồi những cánh đồng lúa phì nhiêu của thời kỳ đổi mới ấm no và thanh bình cứ hiện lên như một thước phim mở ra. Chiếc xe càng tiến về phía trước bao nhiêu thì những hình ảnh mới lại được hiện ra, đẩy lùi những hình ảnh cũ dồn lại phía sau. Xe chạy tới mảnh đất xứ Nghệ thì trời bắt đầu hừng sáng. Mặt trời từ phía đông đang từ từ ngoi lên đỏ ối. Có lẽ bà Ngà, mẹ của Năm, giờ này đang nóng ruột lắm. Khi Hoàng vừa chớm chân đến đầu cổng thì mọi người từ trong sân nhà bà Ngà đã đổ ào ra đón Năm. Tiếp sau đó là những tiếng ồn ào hòa lẫn tiếng khóc om sòm của cả một khu xóm. Tiếng khóc khô như ngói vỡ. Điều ông Hoàng không ngờ là trong đám đông đến dự hôm đó có cả bà Bốn, mẹ của Sinh. Bà chống gậy đi từ xã bên qua, đứng trân trối giữa sân nhìn mọi người rồi chợt nấc nghẹn:
- Sinh..Sinh ơi! Thằng Năm nó đã trở về. Sao con không theo nó về với mẹ hả Sinh?
Mọi người đến dự buổi lễ truy điệu hôm đó, đứng chung quanh, ai nấy cũng đều xúc động. Ông Hoàng không dám nhìn vào gương mặt già nua đầy đau khổ ấy. Ông tr­­ưởng ban lễ tang bắt đầu đọc bài điếu, giọng ông lúc đầu còn trầm ấm và dõng dạc, nhưng càng đọc về sau giọng ông càng lạc đi.
***
Đư­a đ­ược hài cốt của Năm trở về quê, ông Hoàng cảm thấy lòng mình trở nên thanh thản. Nhưng sự thanh thản đó vẫn chưa thể nào nguôi. Cứ hễ mỗi khi ông vừa chợp mắt được tí thì ông lại thấy thằng Sinh xuất hiện. Ông Hoàng nhìn rõ dáng thằng Sinh thấp, đậm. Hắn để bộ ria mép chĩa dài tua tủa, đôi mắt của hắn mở to và hơi sâu, hắn khúm núm tiến lại gần van xin Hoàng tha lỗi cho nó. Hoàng vừa thương nơ, vừa bực mình.
- Mày là cái thằng hèn nhát. Lúc sống thì chẳng phân biệt để mà làm những điều tốt lành, giờ thì còn lỗi với lầm gì nữa!
Thấy Hoàng đang bực tức, Sinh bèn lủi thủi bỏ đi về phía nơi quả đồi đang vùi trong màn s­ương…
- Có chuyện gì mà ông trăn trở thế?
Ông Hoàng chậm rãi nói với vợ:
- Từ ngày ở Tây Nguyên trở về, đêm nào tôi cũng thấy thằng Sinh hiện về bà nó ạ! Nó khóc lóc, van xin tôi tha tội cho nó, và xin tôi dẫn đường cho nó về với mẹ nó. Khổ thật! Nếu để nó nằm lại trong đó, tôi thấy không yên tâm tí nào. Thôi thì bà để cho tôi vào đó một lần nữa đi, tôi sẽ đưa thằng Sinh về cho bà Bốn gặp lại nó, rồi bà Bốn có chết đi thì mình cũng an lòng, bà nó! Ông Hoàng vừa ngưng lời thì người vợ hỏi luôn.
- Nãy giờ tôi nghe ông nói thằng Sinh có tội, có lỗi gì thế hả ông?
Biết chẳng giấu diếm được, ông bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người vợ nghe. Ông Hoàng vừa ngưng câu chuyện thì bà Hà tự dưng nổi nóng. Máu trong người bà bắt đầu sôi lên. Hai tai bà đỏ tía.
- Cái thằng, đã phản bội lại đồng đội, nó còn khai báo cho giặc giết hại đồng đội ông, vậy mà ông còn thương tiếc gì chứ? Không có tìm  tiếc chi cả.
- Ấy chết! Bà đừng nóng! Sao bà lại cáu gắt với tôi? Ở đời có ai muốn thế đâu. Vì chiến tranh cả thôi! Vì bọn giặc ngoại bang cả thôi! Nhưng dù sao trời cũng có mắt, trời đã bắt thằng Sinh phải trả giá rồi đó mà. Thật tội cho bà bà Bốn! Bà Bốn đã sát đất xa trời rồi. Tôi thà không biết thằng Sinh thì thôi. Giờ đã biết rồi, để nó nằm lại đó tôi không hề yên tâm đâu.
Nãy giờ bà Hà ngồi im lặng. Bà nghe người chồng nói có tình có lý, khiến bà nguôi mau cơn tức giận. Mái tóc của bà Bốn rối bù nh­­ư một mớ bòng bong đã chuyển sang màu trắng đục. Gương mặt của bà, thời gian đã vẽ chằng chịt những rãnh cày ngang, dọc. Dáng người gầy hom của bà khô đét dần đi. Nghĩ vậy. Tự dưng bà Hà cảm thấy mủi lòng. Bà Hà đ­­­ưa tay quệt những giọt nước mắt đang lăn dài trên má. Tội cho bà Bốn! Bà Bốn mà biết đ­­­ược chuyện thằng Sinh chạy theo giặc, hẳn bà ấy sẽ chết mất! Bà Hà nghĩ rồi quay sang hỏi chồng:
- Thế hôm nào ông đi? 
- Ngày mai bà nó ạ!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI