Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
(đoạn trích trong sách Ngữ văn 12, tập I) được sáng tác vào tháng 10 năm 1954,
trong khoảng thời gian sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi đến khi Trung
ương Đảng, Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Việt Bắc là một khúc
trữ tình chính trị đặc sắc, thể hiện rõ nét đặc điểm phong cách nghệ thuật thơ
Tố Hữu: “sự kết hợp hài hòa hai yếu tố cách
mạng và dân tộc trong sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo thi ca”*. Ở bài thơ này, Tố Hữu đã có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo để thể hiện hình ảnh Việt Bắc -
quê hương cách mạng, thể hiện những tình
cảm cách mạng lớn lao và những vấn đề lớn của dân tộc và thời đại
như lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
những ân tình thủy chung của người cách mạng đối với Việt Bắc, đối với Đảng và lãnh tụ.
1.
Thể thơ lục bát.
Lục bát là một thể thơ truyền
thống lâu đời của dân tộc sinh ra từ ca dao dân ca nơi ruộng đồng, gò bãi với
cánh cò và người nông dân hồn hậu. Lục bát đi vào văn học viết với Truyện Kiều
của Nguyễn Du, lục bát của Tản Đà, Nguyễn Bính và Tố Hữu. Chính lục bát đã góp
phần tạo ra diện mạo một hồn thơ đậm đà bản sắc dân tộc của Tố Hữu dù ông viết
lục bát không nhiều lắm. Lục bát là thể thơ thường dùng để thể hiện những tình
cảm, những hình ảnh bình dị, thân thương. Lục bát đương nhiên không phải là
sáng tạo của Tố Hữu, sáng tạo ở đây là tác giả thể hiện thành công những tình cảm cách mạng lớn lao, những vấn đề
lớn của hiện thực thời đại bằng một “giọng” lục bát giản dị, mộc mạc chứ không
phải bằng “giọng” sử thi thất ngôn hoặc thơ tự do như nhiều bài khác. Sử dụng
nhuần nhuyễn thể thơ lục bát truyền thống để thể hiện cảm hứng trữ tình chính
trị là một đóng góp và thành công của
tác giả.
2. “Mình - Ta”- một kết cấu
độc đáo.
Chúng ta đều biết, trong ca
dao, dân ca tâm tình có lối đối đáp xưng hô “mình - ta” rất phổ biến, đó là lối xưng hô giữa hai cá thể yêu đương, tâm tình với
nhau: “Mình về có nhớ ta chăng/ Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Mượn lối
xưng hô cá nhân nói chuyện lứa đôi ấy, tạo nên kết cấu đối đáp
để thể hiện những tình cảm lớn lao của dân tộc và
thời đại một cách cụ thể, sinh động, bình dị và sâu lắng là một sáng tạo độc đáo của Tố Hữu. Ở đây, nhà thơ đã cá thể hóa tất cả những
người cách mạng từng sống và chiến đấu ở Việt Bắc thành một nhân vật và Việt Bắc
- thiên nhiên núi rừng, con người được nghệ thuật hóa thành một nhân vật để tạo
nên lối xưng hô “Mình - Ta”. “Ta” là đại
từ nhân xưng ngôi thứ nhất và “Mình” là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, hai nhân
vật đối đáp tâm tình nhưng là tâm tình cách mạng.
Mở đầu là một lời đối đáp (8
dòng lục bát tạo thành hai khổ thơ) gợi lên không khí, khung cảnh của một buổi chia ly, có “mình”, có “ta” với những lớp sóng cảm
xúc thể hiện qua các từ láy: “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” và hình ảnh
“Áo chàm đưa buổi phân li” rất cụ thể và sinh động.
Tiếp đến là lời nhắn gửi của
Việt Bắc - người ở lại, gồm 12 dòng lục bát tạo thành 6 câu hỏi xoáy sâu vào lòng người. Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi có nhớ không những kỉ niệm gắn bó với thiên nhiên, con người Việt Bắc trong cách
mạng và kháng chiến với những đại danh lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,
cây đa.
Trung tâm của đoạn trích là
lời đáp của người cán bộ về xuôi gồm 70 dòng lục bát. Người cán bộ khẳng định tình cảm gắn bó với Việt Bắc như lời thề thủy
chung: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”, đồng thời gợi
lên hình ảnh Việt Bắc, những hình ảnh trong đời sống, sinh
hoạt trong cách mạng và kháng chiến.
Kết cấu đối đáp với
lối xưng hô “mình - ta” đã giúp tác giả thể hiện hình ảnh và ý nghĩa lịch sử của
Việt Bắc - cái nôi của cách mạng Việt Nam. Qua lời đối đáp ân tình, ta thấy hiện
lên hình ảnh Việt Bắc với những chi tiết rất cụ thể, những hình ảnh vô cùng
sinh động, kỉ niệm gợi nhớ kỉ niệm cứ tràn mãi ra không dứt với âm điệu dồn dập của những đoạn thơ lục bát. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện những
tình cảm cách mạng của nhân dân ta. Đó là
lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, kiên gan bền chí trong cuộc đấu
tranh giành độc lập, đó là tình cảm ân nghĩa thủy
chung của những người cách mạng đối với Việt Bắc - quê hương cách mạng, là niềm
tin chiến thắng, tình cảm biết ơn Đảng và lãnh tụ. Người
đọc hình dung như có hai người đang cùng song ca một khúc trữ tình cách mạng nồng
nàn và sôi nổi. Đọc kỹ bài thơ, ta thấy hai đại từ “mình”, “ta” có sự chuyển
hóa đa dạng và đa nghĩa, chẳng hạn như khi tác giả viết: “Mình đi mình có nhớ
mình” hoặc “Mình đi mình lại nhớ mình”. Chữ “mình” thứ ba trong hai câu này
cũng chính là “ta” rồi. Tác giả còn dùng từ
“ai” phiếm chỉ: “Ai về ai có nhớ không?”, thì “ai” ở đây cũng chính là “ mình” với “ta”. Như vậy, “mình” với “ta” tuy hai nhưng chỉ là
một, cấu trúc hỏi đáp, đối thoại mà thực chất là độc thoại, đó là sự phân thân
của cái “tôi” trữ tình nhà thơ để nói cho hết, cho kỹ,
cho sâu những kỉ niệm với Việt Bắc, những ân tình cách mạng. Phần sau của bài
thơ (không trích ở sách giáo khoa Ngữ văn 12), tác giả đã phá vỡ cấu
trúc hỏi đáp để tạo thành một khúc đồng ca, ca ngợi cách mạng, ca ngợi Đảng và
Bác Hồ.
3.
Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu.
Cùng với thể thơ lục
bát, ngôn ngữ trong bài thơ mang đậm màu sắc ca dao, vừa giản dị, trong sáng, gần gũi, rất giàu chất liệu đời sống. Tác giả chủ yếu sử
dụng từ thuần Việt (trong đoạn trích ở
Sách giáo khoa với 90 dòng lục bát chỉ có trên 10 từ Hán Việt) mà đặc điểm của
từ thuần Việt là bình dị, nôm na, dễ hiểu. Tác giả cũng không dùng nhiều các biện
pháp tu từ nghệ thuật phức tạp mà chỉ gợi tả và liệt
kê đơn giản theo mạch liên tưởng, hoài niệm. Hàng loạt những hình ảnh thiên nhiên, núi rừng, con người Việt Bắc, những kỉ niệm cách mạng và
kháng chiến, những địa danh lịch sử được gợi ra, nối tiếp
nhau qua những lời hỏi đáp cũng như những khúc đồng ca: “mưa nguồn”, “suối lũ”,
“lau xám”, “măng mai”, “trám bùi”, “miếng cơm chấm muối”, “mối
thù nặng vai” “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”, “người mẹ
nắng cháy lưng”, “lớp học i tờ”, “những giờ liên hoan”, “ngày tháng cơ quan”, “tiếng mõ rừng chiều”, “trăng lên đầu núi,
nắng chiều lưng nương”, “ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.
Nhờ gắn bó sâu sắc với thiên nhiên và con người Việt
Bắc nên tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên và con người theo mùa hoa trái rất cụ thể:
“Ngày xuân mơ nở trắng
rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng
sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một
mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân
tình thủy chung….”
Tác giả còn vận dụng
phép song hành: bên cạnh một câu lục nhớ “hoa” là một câu bát nhớ “người”. Sự kết
hợp đan xen ấy đã làm cho hình ảnh thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau, hiện lên vô cùng sinh động. Sáng tạo hình ảnh hết
sức phong phú là một thành công của Tố Hữu
ở bài thơ này.
Người ta nói thơ Tố Hữu kết
tinh linh hồn dân tộc ở nhịp điệu thì bài thơ Việt Bắc là một sự thể hiện đậm
nét nhất. Nhịp điệu của câu thơ lục bát hài hòa, trầm bổng làm cho kỷ niệm trở nên ngân nga, réo rắt, thấm vào tâm tư. Nhịp điệu đó
được tạo ra nhờ điệp khúc “mình đi”, “mình về” đặt ở đầu
các câu lục và các vế tiểu đối ở các câu bát: “Miếng cơm chấm muối / mối thù nặng
vai”, “Hắt hiu lau xám / đậm đà lòng son”, “Nhớ khi kháng Nhật / thuở còn Việt
Minh”... Những vế đối đã tạo nên nhịp điệu cân đối, hài hòa, làm cho câu
thơ lục bát mang thêm vẻ đẹp cổ điển. Tác giả còn sử dụng rất nhiều từ láy vừa
gợi hình ảnh vừa tạo sự trùng điệp về âm thanh: “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn
chồn”, “hắt hiu”, “đậm đà”, “thăm thẳm”, “đêm
đêm”, “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng”… Hiện tượng điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp cũng được sử dụng rộng rãi cũng góp phần tạo
nhịp điệu phong phú, như việc lặp lại các từ “nhớ” ở đầu các câu bát, lặp lại
các cấu trúc câu hỏi - đáp, phép lặp và liệt kê các địa danh lịch sử: Tân Trào,
Hồng Thái, mái đình, cây đa, sông Lô, phố Ràng, Cao - Lạng, Nhị Hà, Hòa Bình,
Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An
Khê, đèo De, núi Hồng...
Tóm lại, Việt Bắc là một bài
thơ có nghệ thuật đặc sắc, đậm đà tính dân tộc: thể thơ lục bát với âm điệu
phong phú, kết cấu đầy sáng tạo, ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh
và nhịp điệu. Bài thơ đã thể hiện được hình ảnh và ý nghĩa lịch sử của Việt Bắc - quê hương cách mạng, làm nổi bật những tình cảm
cách mạng cao đẹp của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy gian khổ hy sinh mà oanh liệt, hào hùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI