Năm đó tôi có chuyến cùng một số nhà văn, nhà báo Đắk
Lắk lên các đồn biên giới thâm nhập lấy tài liệu viết bài nhân dịp ngày truyền
thống Bộ đội Biên phòng. Chiếc xe U-oát của Bộ Chỉ huy Biên phòng Đắk Lắk chở chúng tôi
khởi hành rời thành phố Buôn Ma Thuột từ sáng sớm đến chiều mới xuyên rừng vùng
biên khi mặt
trời đỏ như chiếc mâm lửa đang hạ dần xuống phía Tây sau những thân cây khộp thật thơ mộng. Tôi được
gửi lại đồn 737 để xe tiếp tục chở những người còn lại đến các đồn khác kịp
trước khi trời tối. Theo yêu cầu của tôi, sau khi tranh thủ làm việc với chỉ
huy đồn, một sĩ quan được Đồn trưởng phân công dùng chiếc xe máy Min-xcơ chở tôi xuống Đội công tác
cơ sở cách đồn chừng bốn mươi cây số. Ngồi sau xe, tôi cứ phải ôm chặt
lấy người sĩ quan biên phòng đang cầm tay lái nhảy chồm chồm
như phi ngựa giữa hai bên rừng khộp khi trời đã chập choạng tối, đèn xe bật lên soi rõ con đường đất dốc bị mưa xói lở từng
rãnh nham nhở kèm theo mùn đất cuộn lên bụi mù, con đường rừng này chỉ có loại
xe Min-xcơ mới chịu nổi. Người sĩ quan vừa lái vừa giới thiệu
với tôi về những cây khộp bị máy ủi dồn đống thành từng khoảng rộng do Binh
đoàn 16 làm kinh tế đang mở đất để lập làng kinh tế quốc phòng, nơi kia là số
dân Thanh Hóa di dời vào cho quê hương xây dựng lòng hồ thủy điện, dãy nhà mới
xây dựng xong xếp thành từng hàng có dãy cột điện
trước nhà để chuẩn bị đón đồng bào Bến Tre lên xây dựng kinh tế
theo chủ trương xây dựng làng xã biên giới củng cố phên giậu Tổ quốc.
Tôi miên man nghĩ đến công việc của cán bộ chiến sĩ đồn đang đảm nhiệm, với
chiều dài hơn mười lăm cây số đường biên mênh mông rừng khộp, cách dòng suối
bên kia là huyện Koh Nhéc và Cô-bai-don-ray, chốt số 6 cảnh sát Hoàng gia
Căm-phu-chia, thuộc địa phận tỉnh Mun-dun-ki-ri. Bên phía bạn đơn giản bao
nhiêu thì nhiệm vụ của cán bộ chiến sĩ biên phòng mình càng nặng
nề bấy nhiêu. Đồn cảnh sát của bạn chỉ có ba người, ở trong một dãy nhà gỗ,
căn nhà của biên phòng Việt Nam dựng cho. Có lần anh
em biên phòng lấy thuyền chở chúng tôi “vượt biên” sang thăm, căn nhà
trống vắng, màn buông thõng trống trơ, súng dựng trên giá không một bóng người;
ngắm trước ngắm sau, không hề có dấu hiệu tăng gia sản xuất, cây rừng chen chân
vào đến sát thềm nhà, thăm thú khắp nơi…, chừng mười lăm phút sau nghe tiếng xe
máy khục khặc trong rừng, hai thanh niên lưng trần, quần quân phục bốn túi màu
xanh, đeo giày vải cao cổ hì hục đẩy chiếc xe máy hết xăng trần trụi không chắn
xích, chắn bùn... không khác gì xe của người đi rừng chở gỗ. Thì ra các chiến
sĩ cảnh sát Hoàng gia bỏ nhiệm sở vào trong làng cách đó cả giờ
chạy xe để uống rượu. Đừng tưởng họ như vậy mà mất cảnh
giác, bài học kinh nghiệm năm 1978 còn đó, lính Pôn Pốt tràn qua cướp phá, giết
người đốt nhà, cả tuyến biên giới Tây Nam rực lửa, bạn trở thành giặc đốt thiêu tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
Ngay sau đó thực hiện chủ trương
của nhà nước, các tuyến biên giới chúng ta đã có thêm các Binh đoàn quốc phòng làm kinh tế và sẵn sàng làm nhiệm vụ chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc. Đồng bào Thanh Hóa, Bến Tre theo kế hoạch di dân đã có mặt cùng
Binh đoàn 16, lấy vùng đất biên giới để gắn bó, dải đất đồi
trơ trụi chịu đựng ảnh hưởng khí hậu nóng rát nghiệt ngã của biên giới Việt Nam
- Căm Pu Chia đã có thêm sức sống; bỗng tôi thấy chạnh
lòng, đối với đồng bào dân tộc Thái huyện Thường Xuân, Thanh
Hóa từng gắn bó với rừng thì không có gì ái ngại, nhưng đồng bào Bến Tre quen lối
sống vùng sông nước Nam bộ, miền biển lên rừng sẽ sống thế nào đây? Binh đoàn
16 (Công ty) thành lập từng đội sản xuất theo khu dân cư, chia cho mỗi hộ 2 hecta
đất canh tác, đất công ty trồng điều giao cho dân nhận chăm sóc, mỗi đội có một
cái giếng dùng nước cho sinh hoạt. Người đồng bằng lên rừng gặp không ít khó
khăn, những hộ xa quê đi xây dựng kinh tế là những hộ không khá giả gì, thậm
chí nhiều hộ thuộc diện nghèo, đã khó càng thêm khó. Bộ
đội Biên phòng có dự án giúp dân ổn định cuộc sống trước mắt, cấp cho
những hộ đói nghèo một cặp bò chăn nuôi phát triển kinh tế, các anh đến từng hộ
khảo sát giúp dân đưa các loại gia súc gia cầm vào chăn nuôi, trong đó có cả
các loại thú hoang dã đem về thuần dưỡng. Năm 2006 căn cứ vào dân cư và điều kiện
cuộc sống, chủ trương của tỉnh, huyện đã thành lập đơn vị hành chính khu dân cư
thuộc Binh đoàn quốc phòng trên địa bàn thành xã Ia
R’vê; theo tiếng Ja Rai thì “Ia” nghĩa là suối, cái địa danh Ia Rvê là con suối Rvê,
tiếng là thế nhưng cả một dải đất khô cằn có con suối chỉ chứa nước vào mùa mưa,
mùa khô đến cây khộp quen khí hậu cũng khô lá trơ cành, dấu tích dòng suối chỉ còn là những vũng nước đọng ít ỏi. Đất Ea Súp nói chung, xã Ia Rvê nói
riêng chỉ trồng được cây điều, cây mì, cây bắp là loại chịu hạn.
Dịp này tôi cùng đoàn văn nghệ sĩ Bến Tre đi thực tế
thâm nhập đời sống đồng bào nơi phên giậu phía Tây Đắk Lắk một ngày trung tuần
tháng Bảy, may sao vào đúng ngày trời vật vã chuyển mùa, mây vần vũ làm dịu bớt
cái nắng nóng thường ngày của khí hậu biên giới Campuchia. Đường giao thông lên tới xã
biên giới đã được
trải nhựa, đổ bê tông, dù từ huyện lên xã Ia Rvê do xe quá tải, xe máy cày chạy
nhiều có những đoạn bong tróc trũng xuống thành những ổ voi, nhưng so với trước
kia đã thuận lợi hơn rất nhiều. Xe chúng tôi khởi hành từ Buôn Ma Thuột khi ăn
sáng uống cà phê xong, đến quá 11 giờ trưa đã đến xã biên giới. Anh Lương Văn
Trung, người con dân tộc Thái ở Thường Xuân, Thanh Hóa theo gia đình di dân vào lập
nghiệp xây dựng kinh tế vùng biên nay là công an huyện nằm địa bàn xã Ia R’vê được
lãnh đạo Đội An ninh huyện báo trước, Trung săn đón điện thoại chỉ đường cho
tôi. Chị Trần Thị Loan Bí thư Chi bộ thôn 7 quê huyện Ba Tri, Bến Tre
được nhà văn Hồ Trường, Trưởng đoàn đi thực tế từng quen biết trước điện thoại liên
lạc, nên chiếc xe chở chúng tôi vào đến sân trụ sở xã Ia Rvê đã thấy chị
Loan cùng anh Đoàn Minh Thuận, Phó chủ tịch xã đón đợi. Thì ra anh Thuận là người
huyện Mỏ Cày, nên người Bến Tre gặp nhau trong không khí thân tình người nhà;
chị Trần Lệ Thủy - Bí thư Đảng ủy - cũng là người Bình Trị, Bến Tre
hôm nay có cuộc họp huyện nên không có mặt ở nhà khi đoàn quê hương đến thăm. Phó chủ
tịch xã Đoàn Minh Thuận cho biết khái quát tình hình đời sống kinh tế xã hội của
xã vùng biên Ia RVê, toàn xã có 7 ngàn khẩu gồm 20 thành phần dân
tộc sinh sống, người Bến Tre chiếm 80%; tôi mừng cho đồng bào Bến Tre xa đồng bằng
lên lập nghiệp trên rừng năm 2002 có nhiều bỡ ngỡ khó khăn, sau 17 năm vừa làm quen vừa ra sức khai sơn…, đến nay cuộc
sống đã ổn định, có 20% trong số đó có thu nhập từ 100 triệu/ năm trở
lên. Nguồn thu
chủ yếu cây ngắn ngày là đậu, bắp và chăn nuôi, đây là loại canh tác của người Thái có kinh
nghiệm trên đất đồi được anh cán bộ công an địa bàn Lương Văn Trung hướng dẫn; để ổn
định cuộc sống, yên lòng dân vùng biên là nhiệm vụ cốt yếu được cán bộ
chiến sĩ an ninh địa bàn quan tâm. Khi cuộc sống đã có thể tự lập, đồng bào Bến Tre mang
truyền thống canh tác cây trồng của quê hương thử nghiệm trên đất rừng đã cho
hiệu quả bước đầu. Theo chỉ dẫn của Bí thư chi bộ thôn 7 Trần Thị Loan, chúng
tôi đến thăm trang trại cây ăn trái của người có thu nhập vụ vừa qua đem về tiền
tỷ.
Chị Nguyễn Thị Y quê huyện Châu
Thành, hai vợ chồng thuộc diện nghèo ở quê, đi xây dựng kinh tế đợt đầu năm
2002, cũng như mọi người, anh chị được Binh đoàn 16 phân cho một căn nhà xây sẵn
chừng 20m2 và 2 hecta đất canh tác; thời gian đầu cũng nhận một số diện tích điều
của công ty chăm sóc, thu hoạch. Được chừng 3 năm thu hoạch điều nhập cho công
ty cũng đủ chi phí cho ăn uống sinh họat hàng ngày. Lúc ấy tư thương tìm đến thu mua điều với giá cao hơn, nhiều hộ dân đã
bán phần lớn ra ngoài; công ty thấy vậy liền thanh lý hợp đồng, người dân đứt
ruột thương tiếc cho chính mình vừa đổ hết công của vào việc đầu tư chăm
bón cây điều. Thôi thì giấy trắng mực đen đã đánh dấu sự kết thúc cuộc sống làm
công cho công ty, kéo họ về với tư duy tự thân vận động, tự bươn chải; mọi người
tính bước đi trên 2 hecta từ cây đậu ngắn ngày chịu hạn. Để chủ động lương thực
phục vụ đời sống ở vùng đất xa chợ, mọi người trồng thêm bắp, lúa rẫy; đường
lên biên giới thuận tiện, ô tô, xe máy tư thương giao lưu trao đổi nông sản, thực
phẩm, thế là cây đậu nhanh chóng trở thành hàng hóa, lại có thêm thu nhập từ
chăn nuôi, cuộc sống tương đối ổn định thì ai nấy muốn chuyển đổi cơ cấu cây trồng
những mong làm giàu. Vậy là vợ chồng chị Nguyễn Thị Y nghĩ ngay đến những giống
cây ăn trái ở quê hương: mít, dừa, xoài, bưởi Năm Roi…, đưa lên đất rừng biên
giới, để đảm bảo cây phát triển ra trái cần có nước, từ 2 hecta đất được chia,
vợ chồng chị Y mua mở rộng thêm 3 hecta đất rẫy liền kề con suối, gọi là suối
cho mát lòng, khi chúng tôi đến nhìn con suối chỉ còn
là một vũng nước tù, như thế cũng đủ đem lại sự sống cho cả một dải đất nắng nóng
khô hạn. 1.800 cây mít Thái xếp hàng tăm tắp xanh tươi đang ra những trái non
bám từ gốc lên đến cành, 50 cây dừa Xiêm đứng trên bờ con suối, nằm cuối rẫy
còn có những cây xoài, những bụi chuối… Ngắm nhìn trang trại cây ăn trái trải dài,
chiếc xe máy cày chở máy nổ cùng những ống tưới đứng đó, tôi hiểu rằng công sức hai vợ chồng chị đổ vào chăm bón là tất cả niềm hy vọng cho tương
lai. Được biết những cây mít Thái thân mảnh mai thế nhưng đứng
vững cho những trái mít loại cỡ nhỏ cũng tới 7 kg, loại to có trái
tới 15 kg, mùa thu hoạch mít từ tháng 9 năm này đến tháng 5 năm sau, 10 ngày
thu hoạch một lần, chuẩn bị đến vụ thu hoạch thương lái đã vào thăm đặt cọc,
đánh ô tô vào tận rẫy thu về. Vụ vừa qua nhà chị Y riêng thu từ mít được 50 tấn,
theo giá thu mua thời điểm là 25 ngàn đồng một kg, vậy là thu từ những cây mít
trong một vụ gia đình chị đã có tiền tỷ, mọi người nhẩm tính xuýt xoa, căn nhà
được binh đoàn chia cho, anh chị đã đầu tư vào đó 400 triệu cải tạo xây dựng
khang trang vào năm 2016; nhưng anh chị chủ yếu bám lấy căn nhà gỗ trong rẫy
trông coi mùa trái, chăm sóc tưới tiêu, kết hợp chăn nuôi gà vịt… tài sản trên
đất như thế làm sao không thu hút những người có chí lên biên giới tìm đất làm
giàu, mấy năm trước anh chị quyết định mở rộng rẫy, giá trị lúc đó chỉ mấy chục triệu một hecta, bây giờ mỗi hecta đã mấy trăm triệu. Trở về gia
đình chị Trần Thị Loan, Bí thư chi bộ thôn 7 chúng tôi vững tâm hơn, chồng chị
Loan là anh Cao
Hoài Trung từng làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã khi thành lập xã Ia R’vê, hiện nay làm
Chủ tịch Hội Nông dân xã, con đầu anh chị là Cao Thanh Luân học cao đẳng quản lý văn
hóa tốt nghiệp ra trường, không muốn rời xa vùng đất đã xanh tươi bén
rễ, anh được tín nhiệm bầu làm Bí thư Đoàn, lãnh đạo một lực lượng tuổi trẻ gánh trên vai
nhiệm vụ nặng nề nơi tuyến đầu Tổ quốc.
Chị Nguyễn Thị Y vẫn phong thái của
người phụ nữ Bến Tre, khăn rằn vắt vai, tươi cười tiễn chúng tôi như gửi gắm một
thông điệp với những người con quê hương hãy yên tâm
về những người xa quê vùng sông nước đi lập nghiệp trên cao nguyên, vùng đất
biên giới nắng hạn, sẽ vẫn luôn làm rạng danh truyền thống người Bến Tre anh hùng
trong chiến tranh cũng như trong xây dựng đất nước thời bình. Cả tuyến biên giới khô cằn trống
trơ ngày nào nay xanh tươi sức sống, trong đó có sự đóng góp của người đồng bằng
Nam bộ quê hương đồng khởi Bến Tre.