NGUYỄN DU - NHÀ THƠ CỦA TÌNH NGƯỜI,
TÌNH ĐỜI VĨ ĐẠI
Nguyễn Du, nhà thơ xuất sắc của nhân loại, Danh nhân văn
hóa thế giới, người có đóng góp to lớn cho lịch sử văn học Việt Nam . Ông
vĩ đại trên nhiều phương diện nhưng trước hết, có lẽ bởi giá trị nhân đạo, là tình
người, tình đời đẹp lấp lánh trong những vần thơ mà ông để lại cho đời.
Sinh ra trong gia đình trâm anh thế phiệt nhưng sớm sa sút,
sống trong thời đại có nhiều biến động, đất nước chìm trong bóng can qua, sơn hà
mấy phen đổi chủ, xã hội bất ổn, nhân dân lầm than, nhiều giá trị đảo lộn; bản
thân gặp nhiều bất hạnh, sớm mồ côi mẹ, phải sống cảnh ở đậu ăn nhờ, hơn nửa đời
trôi dạt, tấm thân gởi nơi gió bụi quê người (Tha hương thân thế thác phù vân
- Quê người thân thế gởi mây trôi), bản thân hay bệnh tật, gặp nhiều chuyện đau
buồn, chất chứa trong lòng nhiều u ẩn không thể nói ra (Ngã hữu thốn tâm vô
dữ ngữ - Ta có tấc lòng không thể nói)…, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Du là người
thấm thía sâu sắc nhất những nỗi đau của nhân sinh thế cuộc, trăm năm kiếp người…
Dù xuất thân quý tộc nhưng Nguyễn Du lại sống gần gũi với
nhân dân lao động. Đây là may mắn đối với sự nghiệp văn chương của ông. Chính từ
những ngày sống giữa nhân dân, nhà thơ nghe được tiếng nói của đời cần lao (Thôn
ca sơ học tang ma ngữ - Tiếng hát thôn quê giúp ta biết được tiếng nói của
kẻ trồng dâu, trồng gai), hiểu rõ hơn tâm tư của những kiếp người bé nhỏ trong
xã hội. Cũng chính dân gian đã cung cấp cho ông nhiều vốn liếng quý báu, nuôi dưỡng
tâm hồn thơ ca, khơi dậy mạch nguồn cảm hứng sáng tạo, nâng đôi cánh nghệ thuật
thiên tài Nguyễn Du “bay bổng tuyệt vời”.
Bằng tâm hồn nhạy cảm và trái tim giàu lòng trắc ẩn, Tố
Như thấu hiểu nỗi đau của người dân nghèo khổ, những thân phận con ong cái kiến
trong xã hội xưa. Trong thời phong kiến, họ phải chịu nhiều bất hạnh, trong xã
hội chiến tranh loạn lạc, họ càng phải gánh lấy biết bao bi kịch, khổ đau. Đó là
những người lính đi mãi nơi chiến địa không biết ngày về (bài Đại tác cửu thú
tư quy 1), những người vợ ở nhà mòn mỏi chờ đợi (Thu dạ 2), những người
tị nạn nón mê, áo rách đi lầm lũi trên đường (Ngẫu hứng 5)… được thể hiện
bằng những vần thơ cảm động.
Vượt ra ngoài biên giới, chủ nghĩa nhân đạo trong thơ
Nguyễn Du hướng đến những nỗi khổ đau kiếp người mang tầm phổ quát cả nhân loại.
Đó là nỗi đau bởi nghèo đói, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, chết chóc,… mà
con người phải chịu đựng. Trong mười mấy tháng trời ròng rã đi sứ phương Bắc, tận
mắt chứng kiến nhiều mảng hiện thực đen tối của xã hội Trung Hoa bấy giờ, bằng
cái nhìn tỉnh táo và trái tim giàu lòng thương cảm, Tố Như đã ghi lại những cảnh
sống bế tắc, lầm than, cùng cực của người dân nước này. Đó là cảnh bốn mẹ con đói
rách ăn xin bên đường (Sở kiến hành), cảnh ông cháu người mù hát mướn miệng
sùi bọt mép, tay rã rời (Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc) mà chỉ được năm
sáu đồng (Thái Bình mại ca giả), cảnh khắp nơi tan tác vì nạn bắt lính (Trở
binh hành),… được thể hiện một cách xót xa trong tập Bắc hành tạp lục.
Không chỉ đối với thế giới thực hữu, chủ nghĩa nhân đạo
Nguyễn Du còn hướng đến thế giới của siêu nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà trong
thơ Tố Như, nhiều mồ mả, đền đài, hồn ma xuất hiện. Ông dành cho cả những hồn
ma bất hạnh sự cảm thương kì lạ: Thương thay thập loại chúng sinh/ Hồn đơn
phách chiếc lênh đênh quê người/ Hương khói đã không nơi nương tựa/ Hồn mồ côi
lần lữa đêm đen (Văn chiêu hồn).
Tự nhận mình là người mang nỗi oan phong vận kì lạ (Phong
vận kì oan ngã tự cư - Ta tự mang cái oan phong vận lạ lùng), Nguyễn
Du dành tình cảm đặc biệt cho những người phụ nữ khổ đau trong xã hội xưa, nhất
là những “đấng tài hoa” hồng nhan bạc mệnh, những ca nhi, kĩ nữ Sống làm vợ
khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng (Truyện Kiều).
Với tấm lòng “đồng cảm liên tài”, Tố Như viết về Thúy Kiều, nàng Tiểu Thanh, người
đánh đàn ở đất Long thành, người ca giả đất La thành, người hát cũ của em trai
mình, người đàn bà hóa đá vọng phu bằng những vần thơ như chứa chan nước mắt và
“có máu trào ra ở đầu ngọn bút” (Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ nhân). Đau đớn
thay phận đàn bà/ Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu (Văn chiêu hồn),
có lẽ, ít có ai như Tố Như viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa nghẹn
ngào, cảm động như thế.
Là người ý thức về tài năng (Tráng niên ngã diệc vi tài
giả - Thời trai trẻ ta cũng là kẻ có tài), Nguyễn Du là người biết tài và
thương tài. Đối với các nhân vật lịch sử Trung Hoa, ông bộc lộ thái độ yêu ghét
rõ ràng. Nhà thơ phê phán bọn gian thần, bạo chúa, những kẻ tiểu nhân nhưng đồng
thời bày tỏ lòng ngưỡng mộ, cảm phục đối với “những đấng tài hoa” (Bình sinh
bội phục vị thường li - Một đời kính phục chưa từng rời). Họ là những hiền
nhân bôn ba thuyết giáo khắp nơi (Khổng, Mạnh), thi nhân tài danh nhưng lận đận
(Đỗ Phủ, Lý Bạch), trung thần bị hãm hại, dèm pha (Khuất Nguyên, Hàn Tín, Nhạc
Phi), danh tướng bỏ tuổi xuân nơi chiến trường (Ban Siêu, Mã Viện), hiệp khách
vì nghĩa lớn một đi không trở lại (Kinh Kha, Nhiếp Chính, Điền Quang),… được thể
hiện một cách sinh động, đẹp đẽ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Trong thơ Tố Như, còn có những tình cảm riêng tư, thầm kín
hơn. Đó là một tấc lòng quê đau đáu của con người mấy chục năm phiêu dạt khắp nơi
(Hải giác thiên nhai tam thập niên - Chân trời góc bể ba chục năm) chỉ
biết gởi nơi vầng trăng sáng (Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ - Một tấc
lòng quê dưới ánh trăng), là tình cảm gia đình khắc khoải trong hoàn cảnh li tán
(Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán - Chốn Hồng Lĩnh không nhà, anh em tan tác),
là những nỗi lòng sâu thẳm không biết giãi bày cùng ai. Thế nhưng, vượt lên trên
những “niềm tây sá gì” ấy, thơ Nguyễn Du còn hướng đến cuộc đời rộng lớn với những
nỗi đau muôn thuở của kiếp người. Đó là điều đáng quý biết bao. “Nguyễn Du là
người, như Khuất Nguyên, mang những vấn đề của ngàn năm, của triệu người nên cái
đau khổ của ông là một đau khổ lớn, có tính cách đại diện cho nhân loại”
(Xuân Diệu). Thơ Nguyễn Du vì thế mang đậm giá trị nhân văn, kết tinh truyền thống
chủ nghĩa nhân đạo xuyên suốt trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại.
Kỉ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du (1765-2015), tưởng nhớ
về ông, ta càng tự hào về nhà thơ vĩ đại của dân tộc. Cùng đọc lại những tác phẩm
mà Nguyễn Du đã đau đời viết nên để hiểu hơn về con người tự nhận mình trước lúc
chết vẫn chưa hết nỗi lo buồn ngàn năm (Thiên tuế trường ưu vị tử tiền),
khóc cùng ông như cách đây hơn hai trăm năm con người có “mắt nhìn thấy sáu cõi,
tai nghe tới nghìn đời” (Mộng Liên Đường) từng day dứt: Bất tri tam bách dư
niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Không biết ba trăm năm lẻ nữa/ Thiên
hạ ai người khóc Tố Như).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI