Thứ Hai, 5 tháng 6, 2017

GIỚI THIỆU TẠP CHÍ CHƯ YANG SIN SỐ: 297 - THÁNG 5 NĂM 2017 tác giả PHẠM TUẤN VŨ





NHÂN VẬT ÔNG GIÁO
TRONG TRUYỆN NGẮN “LÃO HẠCCỦA NAM CAO



Từng là một “giáo khổ trường tư”, Nam Cao hiểu và viết thấm thía về cuộc sống bấp bênh, nghèo túng của người làm nghề dạy học trước 1945. Ông có hẳn một mảng đề tài viết về người trí thức trước Cách mạng mà nhân vật trung tâm là những văn sĩ và những ông giáo trường tư.
Lão Hạc (đăng lần đầu trên Tiểu thuyết thứ bảy, số 484 ra ngày 23.10.1943) là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao được đưa vào giảng dạy ở chương trình phổ thông (Ngữ văn 8, tập I). Tác phẩm viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, một trong hai mảng đề tài chính trong sáng tác của Nam Cao trước 1945. Xuyên suốt câu chuyện, bên cạnh nhân vật chính là lão Hạc, một lão nông dân nghèo, vợ mất sớm, con đi làm cao su gần bốn năm chưa về, một con người giàu lòng tự trọng và nặng tình nghĩa, còn có nhân vật “tôi”, tức ông giáo, “nhân vật xưng tôi, kẻ bầu bạn, người được trao gửi, nhân chứng gần gũi của lão Hạc” (Nguyễn Thị Thanh Xuân, “Bi kịch của lão Hạc”). Dù không phải là nhân vật chính, chỉ hiện lên qua lời kể ngôi thứ nhất nhưng nhân vật này phản ánh được nhiều mặt trong đời sống của người làm nghề giáo nói riêng và trí thức nói chung ở nước ta trước Cách mạng 1945.
Trước hết, nhân vật “tôi” cũng như bao “giáo khổ trường tư” khác trước 1945, phải sống trong nghèo túng, bấp bênh. “Hồi bị ốm nặng ở Sài Gòn tôi bán gần hết cả áo quần […] về quê, hành lý chỉ vẻn vẹn có một cái va ly đựng toàn những sách”. Rồi “mỗi lần cùng đường đất sinh nhai, và bán hết mọi thứ rồi, tôi lại phải bán đi một ít sách của tôi”. Cuối cùng, “tôi” phải bán luôn năm quyển quý nhất “dù có phải chết cũng không chịu bán” vì “đứa con nhỏ của tôi bị chứng lỵ gần kiệt sức”. Con cái nheo nhóc, đói ăn, đau ốm liên miên; vợ “khổ quá rồi”, phải bán dần từng món đồ trong nhà, cả “những quyển sách rất nâng niu” để có tiền chạy ăn từng bữa và chạy chữa bệnh tật cho con. Nhà văn chỉ phác họa chừng ấy thôi nhưng cũng đủ cho ta thấy cuộc sống nghèo khổ, quẩn quanh, bế tắc của người trí thức Việt Nam trước Cách mạng mà ông giáo trong truyện là một tiêu biểu.
Thế nhưng vượt lên trên những cái tầm thường, nhỏ nhặt của cuộc đời thật đáng buồn, ở nhân vật ông giáo có những phẩm chất tốt đẹp. Cũng như ông giáo Điền trong Giăng sáng, văn sĩ Hộ trong Đời thừa, ông thầy Thứ trong Sống mòn…, ông giáo “tôi” trong Lão Hạc cũng từng có một thời đầy ắp lý tưởng sống cao đẹp. Đó là “một thời chăm chỉ, hăm hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng : mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông, cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét…”. Nhưng rồi “một trận ốm thập tử nhất sinh đã lại đem y về, trả cho đất chôn nhau cắt rốn” (Sống mòn), rồi cuộc sống đói kém, túng quẫn ở quê, ta không thấy nhân vật nhắc gì đến lí tưởng của thời trước nữa. Có thể rồi ông giáo cũng sẽ rơi vào bi kịch như Điền, Hộ mà thôi. Nhưng nếu sống trong thời đại hôm nay, có lẽ ông giáo sẽ làm được nhiều hơn, sẽ là một người giáo viên ưu tú.
Về hiểu biết, đó là “người nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận” được “người ta kiêng nể”. Bởi vậy mà lão Hạc trong khi “âm thầm làm nốt những phần việc cuối cùng của một kiếp người để rồi tự sát” (Chu Văn Sơn, “Nghệ thuật văn xuôi của truyện ngắn Lão Hạc ) đã tin tưởng “viết văn tự nhượng cho tôi” và nhờ “tôi” trông coi mảnh vườn cho thằng con “để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến”. Về nhân cách, ở ông giáo có những đức tính tốt đẹp đáng quý. Đó là một người biết đồng cảm, sẻ chia với người khác, một người có lòng bao dung, nhân hậu. Đối với người vợ có vẻ lạnh lùng, tàn nhẫn của mình, ông giáo “chỉ buồn chứ không nỡ giận” bởi ông biết “cái bản tính tốt đẹp của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất”, bởi “vợ tôi không ác nhưng thị khổ quá rồi”.
Đặc biệt với lão Hạc, ông giáo là người bạn an ủi trong tuổi già cô quạnh của lão, là người biết cảm thông với hoàn cảnh trống vắng, buồn tủi của lão Hạc bằng cách thường xuyên thăm hỏi, chuyện trò, chia sẻ cùng lão bạn khốn khổ của mình những niềm vui đơn sơ của người nghèo là điếu thuốc lào, ấm chè đặc, củ khoai luộc… Khi lão Hạc trở nên đói khổ hơn vì “có đồng nào, cụ nhặt nhạnh đưa cho tôi cả”, ông giáo đã “giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc”. Trong truyện, dù có đến “hai lần ngộ nhận (khi nghĩ về con chó và miếng bả chó)” (Nguyễn Thị Thanh Xuân) nhưng ông giáo có lẽ là người duy nhất hiểu và đồng cảm với những nỗi đau quá lớn trong cuộc đời lão Hạc. Chứng kiến cái chết vật vã, dữ dội của lão mà nguyên nhân cái chết “chỉ có tôi với binh Tư hiểu”, nhân vật tôi – ông giáo càng hiểu hơn, kính trọng hơn nhân cách của một lão nông nghèo và thầm hứa nguyện với người đã mất sẽ cố gìn giữ cái vườn cho con lão. Những dòng cuối truyện thật xót xa, như là tiếng nức nở trong lòng của một ông giáo nghèo khóc cho lão bạn nghèo bất hạnh, cho đến lúc chết đi vẫn chưa một lần thấy con trở về, của mình. Chuyện kết thúc “chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”, ám ảnh trong người đọc nhiều điều.
Tóm lại, không phải là nhân vật chính, không được nhà văn tập trung xây dựng nhưng qua câu chuyện được kể lại bởi chính ông giáo, nhân vật tôi, ta thấy được nhiều về đời sống, nhân cách của những ông giáo nước ta trước Cách mạng, đáng để cho chúng ta ngày nay, nhất là những ai theo nghiệp cầm phấn, phải suy nghĩ.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI