Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2017

GIỚI THIỆU TẠP CHÍ CHƯ YANG SIN SỐ: 301 - THÁNG 9 NĂM 2017 tác giả NGUYỄN THỊ BÍCH THIÊM

TÁC PHẨM ĐỀ TÀI CÔNG AN NHÂN DÂN
  
CHUYỆN CỦA ĐIỀM

Truyện ngắn



Cái tin Điềm mãn hạn tù về làm cái xóm nhỏ Ngã Tư chiều nay chộn rộn hẳn lên. Dân trong xóm đa số là người nghèo nên sống quây tụ và chất phác. Mỗi việc vui hay buồn của một nhà là cả xóm lại cùng kéo đến chật nhà chia sẻ.
Mới gần 7 giờ tối, mấy ông bạn cùng Hội Cựu chiến binh với ông Trương đã lục tục kéo sang. Lát sau thêm các bà, rồi đám thanh niên bạn của Điềm. Người ta ngồi kín trên chiếc chiếu trải trên nền nhà xi mắng nhẵn bóng. Tiếng nói cười rôm rả. Lũ trẻ con chạy qua chạy lại trêu nhau chí chóe. Điềm có vẻ hơi ngượng ngùng, vẫn chưa hết mặc cảm. Nhưng về sau, không khí thân tình của mọi người khiến nó cư xử tự nhiên hơn.
Giữa lúc ấy, một người bước vào sân, mấy đứa trẻ lau nhau thi nhau chào:
- Cô Tâm! Cháu chào cô ạ!
- Cô giáo! Mời cô vào nhà chơi ạ.
Ông Trương cất tiếng mời. Bà Trương lăng xăng chạy ra ôm lấy tay bà giáo, và nghẹn ngào:
- Cô giáo ơi! Thằng Điềm nhà tôi được về nhà rồi.
Bà giáo chậm chậm bước lên thềm. Hình như bậc thềm hơi cao, bà hơi chúi xuống. Đúng lúc Điềm bước ra, nó vội chạy tới dắt bà giáo bước lên, rồi khẽ khoanh tay:
- Em chào cô ạ!
Bà giáo thảng thốt nhìn. Đứa học trò lớp bà chủ nhiệm năm nào đang đứng trước mặt bà. Cao lớn, hơi gầy nhưng vẫn có vẻ rắn rỏi. Cặp mắt nó cũng hoe đỏ. Bà cũng rưng rưng. Vừa may, bà Trương chạy lại đỡ tay:
- Cô giáo! Mời cô ngồi ạ.
Lại thêm mấy người nữa đến chơi. Bà Trương te tái chạy ra đón khách, bà giáo ngồi đó. Ly nước chè xanh bốc khói thoang thoảng hương thơm. Vẻ mặt trầm ngâm, bà cứ xoay xoay ly nước trong tay, môi khẽ phớt nụ cười mà ai tinh ý sẽ thấy có một chút ngại ngùng trong đó. Hồi ức gọi về cái đêm định mệnh đó, khiến bà lại băn khoăn, day dứt…
Đêm đó, trời sáng trăng suông. Sau khi chấm xong tập bài kiểm tra, Tâm đi ngủ. Trong trạng thái nửa thức nửa ngủ, cô nghe tiếng Điềm đang nói chuyện với ai đó bên ngoài. Cô thấy hơi lạ. Nhà Điềm ở cuối xóm phía bên kia. Giờ này sao chưa về còn lang thang ở đây? Tâm trở mình, ngồi dậy ngó ra bên ngoài. Lại không có tiếng ai nữa. Tâm nằm xuống và nghĩ đến tiếng nói của Điềm khi nãy. Trong lớp chủ nhiệm của cô thì Điềm lớn nhất. Là con cả trong gia đình, nó đi học muộn một năm. Rồi do bản tính ham chơi, hiếu động nên nó ở lại lớp một năm nữa. Cao lớn, ít nói, Điềm có vẻ chững chạc hơn so với các bạn. Nó sáng dạ, nhưng thiếu kiên nhẫn và không cẩn thận. Bài toán, ngồi làm lúc là xong, nhưng tẩy xóa lem nhem, ngồi trong lớp nó cũng hay ngủ gật. Nếu thức, nó không giật tóc bé Hoa bàn trên thì lại thúc cùi chỏ trêu bạn cùng bàn. Tuy thế, mỗi khi lớp lao động thì Điềm luôn tự giác làm những việc khó. Và rất thích tỏ ra mình là người lớn.
Những ngày cuối của học kì một năm lớp 12, học trò, thầy cô đều bận rộn với bài vở, ôn thi. Chính vì vậy mà Tâm lo ôn thêm cho học sinh. Nhìn lũ học trò nửa ngày đi làm rẫy cho bố mẹ, nửa ngày đi học, nhiều đứa mắt quầng thâm, phờ phạc vì thức đêm tưới cà phê, cô thương chúng như con em mình vậy. Lắm hôm lên lớp tiết 1 đầu chiều, có đứa gục xuống ngủ, cô thường không nỡ gọi ngay mà để vài phút rồi mới nhắc học trò bên cạnh gọi bạn dậy, ra rửa mặt vào học tiếp. Do bận rộn mà có lần thấy Điềm đi cùng với mấy đứa choai choai nhưng cô cũng không hỏi kĩ.
Sáng hôm sau,Tâm vừa ra đến chợ thì nghe mọi người xôn xao đêm qua Điềm cùng mấy cậu bạn uống rượu say rồi không hiểu sao đánh nhau với một nhóm thanh niên trên thị trấn xuống. Hậu quả là một người phải đi cấp cứu do vết thương quá nặng. Rồi Điềm bị bắt và chịu án tù 4 năm. Ngày đó, mỗi lần vào lớp, nhìn chỗ ngồi của Điềm bị trống, cô không khỏi day dứt: “Giá như dạo đó cô để ý đến Điềm hơn, giá đêm đó cô tỉnh ngủ hơn một chút để bước ra ngoài, cô sẽ nói được Điềm ra về và sẽ không có chuyện gì xảy ra”.
- Thế nào? Ở trong trại có bị “đại ca” nào oánh không, bay?
Ông Tam bỗ bã hỏi. Điềm khẽ lắc đầu và nói, giọng nhỏ mà rõ ràng:
- Dạ, không có đâu ạ. Anh trưởng buồng là anh họ đứa bạn cháu. Ảnh chửi cháu ngu sắp thi 12 mà còn ham chơi để gây họa.
- Ờ, vậy mà bác cứ nghe nói vào trại là phải làm thủ tục “chào hỏi” ghê lắm.
- Dạ, không có đâu bác. Phòng có camera, hơn nữa, cán bộ cũng thường nhắc tụi cháu không được gây lộn.
- Cán bộ nhắc vậy á?
- Dạ, dạo cháu mới vào, đêm nào cháu cũng không ngủ được vì sợ bị đánh, vì lạ, và vì nóng nữa. Sau này, phòng được sửa sang, sơn lại tường, sân được làm lại, lại có sân chơi bóng chuyền, sân tập thể dục…nên thấy dễ chịu hơn. Cán bộ cũng thỉnh thoảng hỏi chuyện cháu xem có ngủ được không, ăn uống như thế nào… Rất nhiều lần, cán bộ vào phòng ngồi nói chuyện cùng chúng cháu, và đối xử rất thân tình, không miệt thị, không quát nạt nên mới bớt cảm giác bí bức khó chịu bác ạ.
- Ừ, vậy thì quá tốt.
- Thế nhưng có lần thằng Hợi đen nó bày trò để được lên trạm xá nằm cho mát, nó vờ nôn ra máu làm cán bộ đang đêm phải gọi người đưa nó lên trạm xá! Trên đó mát hơn mà. Điềm kết luận, uống một ngụm nước và nói tiếp:
- Hôm cháu và mấy đứa được ra trại, cán bộ cũng vui lắm. Cán bộ cứ dặn cháu: “Có điều kiện thì học bổ túc cho hết cấp 3 rồi học nghề mà sống”. Cháu thấy tiếc và ân hận. Giá không có chuyện ngày ấy thì giờ chắc cháu đã đi làm, giúp bố mẹ nuôi các em được rồi.
Nãy giờ bà giáo vẫn im lặng nghe mọi người và Điềm nói chuyện. Chỉ có ánh mắt bà tươi tỉnh hơn. Điềm bưng ly nước, bằng hai tay, đến trước mặt bà, và mời:
- Em mời cô uống nước ạ. Cô ơi, em xin lỗi cô vì ngày ấy em nông nổi quá. Em làm khổ bố mẹ em, làm khổ các em em.. Giờ em sẽ không dại dột như vậy nữa.
Bà Tâm bưng ly nước và nhìn vào mắt Điềm. Ánh mắt nó nhìn thẳng. Bà như thấy cậu học trò luôn luôn giành các việc khó, việc nặng mỗi khi lớp lao động hay làm rẫy cho bố mẹ thay cho đàn em nhỏ của mình trưởng thành hơn.
- Em định vài nữa nữa sẽ xin học nghề sửa xe máy, cô ạ.
- Phải đấy! Việc đó không sợ bị thất nghiệp. Rồi sẽ ổn dần thôi!
- Cũng biết lo cho tương lai rồi. Lớn rồi nhỉ!
Tiếng mọi người lao xao. Ông Trương nhìn vợ. Bà Trương ngồi bên con, tay nắm chặt tay Điềm, miệng bà cười mà mắt bà lại rưng rưng.
Ngoài sân, vầng trăng mờ ảo vẫn tỏa ánh sáng dịu dàng khắp không gian.
17.6.2017


Thứ Năm, 28 tháng 9, 2017

GIỚI THIỆU TẠP CHÍ CHƯ YANG SIN SỐ: 301 - THÁNG 9 NĂM 2017 tác giả TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT

TÁC PHẨM VỀ ĐỀ TÀI CÔNG AN NHÂN DÂN


  
VÒNG HOA XUYẾN CHI
                                     
Truyện ngắn


Chiều muộn, mặt trời từ đỉnh núi phía Tây phả vào không gian một màu cam vàng nhạt, từng áng mây hồng bồng bềnh trôi trên bầu trời cao vời vợi. Những tia nắng đổ dài trên triền đồi ngập tràn hoa xuyến chi. An ngất ngây trước những bông hoa trắng muốt đang dập dờn theo giai điệu của gió. Không biết từ bao giờ màu trắng tinh khôi của loài hoa dại ngấm trong từng mạch máu của An. Mỗi khi đi học về, bé thường nán lại ngắm những bông hoa màu trắng êm ả và dịu dàng để xua đi sự mệt nhọc sau một ngày học tập vất vả.
Nắng chiều càng lúc càng nhạt, An vội kết hai vòng hoa bỏ vào cặp, một vòng cho An và một vòng cho em gái. An mỉm cười khi nghĩ đến bé Linh mỗi lần ra ngõ đón chị, được chị đội cho vòng hoa trên đầu thì cười toe. An phải nhanh chân về chuẩn bị bữa cơm tối để mẹ về có thời gian nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả. Nghĩ đến mẹ, An thương quá, bốn năm trước, cha bỏ ba mẹ con sau một cơn bạo bệnh. Mẹ vất vả nuôi hai chị em, mẹ lên rẫy từ khi gà vừa gáy sáng, trở về khi mặt trời khuất sau rặng núi. Hàng ngày, An sắp xếp thời gian giúp đỡ việc nhà để mẹ nghỉ ngơi. Năm nay, An lên lớp 6, trường cách nhà gần mười cây số, mẹ động viên An: “Con cố gắng đi bộ, cuối năm học này, thu đậu xanh, mẹ mua cho con một chiếc xe đạp”. Cô giáo chủ nhiệm thương cô học trò nhỏ đi học một mình trên con đường hoang vắng, thường tranh thủ chở An về, cô còn đưa điện thoại cho An và dặn: “Những lúc, cô không chở con về được, khi gặp chuyện gì thì gọi cho cô”. Mải miên man suy nghĩ, An giật mình, bé sắp đi qua quãng đường mà mỗi lần đi là nỗi sợ hãi cứ bủa vây lấy mình. Hai bên đường cây lồ ô phủ kín, khi gió thổi chúng cứ phát ra âm thanh rin rít làm bé rợn người. Đi đến đoạn đường ấy, trống ngực An đánh thình thịch, hoang mang, phấp phỏng.
***
Nhận được tin báo, có một cháu bé chết bất thường ở sườn đồi, công an đã tiến hành khám nghiệm hiện trường và phân tích các vết thương trên người nạn nhân, cháu bé tử vong do tác động mạnh của ngoại lực. Khi có kết luận, đây là vụ án giết người, hiếp dâm trẻ em đặc biệt nghiêm trọng. Chuyên án truy xét được xác lập, Trung tá Hoàng Lan làm trưởng ban chuyên án. Chiều nay, cô cùng một số chiến sĩ đến nhà nạn nhân để tìm hiểu thêm một số thông tin. Cô đã không cầm được nước mắt khi thấy người mẹ đang vật vã bên linh cữu của con gái, chị khóc rồi tỉnh, tỉnh rồi khóc, khản giọng gọi con trong tuyệt vọng.
- A…n…ơ…i! Đừng bỏ mẹ mà đi, về với mẹ con ơi!
 Kế bên đứa con gái nhỏ cũng đang mếu máo khóc đòi chị.
- Chị An! Mau dậy với em Linh, sao chị ngủ mãi trong cái hộp này vậy? Em hứa sẽ ngoan, không chơi đất dây bẩn quần áo để chị khó giặt nữa. Em hứa rồi đó, dậy đi hái hoa xuyến chi để hai chị em mình đội lên đầu làm công chúa đi chị.
Trung tá Hoàng Lan nghẹn ngào trước cảnh đó, cô bế bé Linh vào lòng.
- Con gái ngoan đừng khóc nữa, rồi cô sẽ làm vòng hoa cho cháu.
Bé Linh liền nép vào lòng cô như kiếm tìm một sự bù đắp và che chở trước sự mất mát lớn. Hoàng Lan đứng lặng, dán mắt vào di ảnh của bé An, một cảm giác nhói nơi tim rồi chạy khắp cơ thể người cảnh sát từng kinh qua nhiều vụ trọng án. Với bọn tội pham cô được mệnh danh là “Bông hồng thép”. Nhưng lòng cô luôn chùng xuống trước những cảnh thương tâm. Hoàng Lan lặng lẽ đến thắp nén hương và thầm thì với linh hồn của bé: “Cô hứa sẽ sớm tìm ra kẻ nào đã hãm hại cháu, chúng sẽ trả giá cho hành động nhẫn tâm kia”. Sau khi cử một trinh sát nữ ở lại động viên và chăm sóc hai mẹ con bé Linh. Cô liền ra hiệu cho một số đồng chí nữa ra về để giao nhiệm vụ.
***
Phòng điều tra hình sự đang thời gian nghỉ trưa, chỉ còn lại một mình Trung tá Hoàng Lan. Từ khi thụ lý vụ án, cả ban chuyên án đã tận tâm, tận lực lực trong việc truy tìm hung thủ nhưng hơn mười ngày trôi qua vẫn chưa tìm ra kẻ sát nhân. Cô lật hồ sơ nghiên cứu lại các tài liệu điều tra ban đầu, ngày bé An bị sát hại là ngày tết thanh minh của dân tộc Tày, Nùng, nơi bé sinh sống nên rất nhiều đối tượng vãng lai từ nơi khác đến chơi, các trinh sát đã rà soát, sàng lọc kỹ các đối tượng nhưng vẫn chưa tìm ra kẻ thủ ác. Trong lòng cô xoáy lên một sự áy náy, cô thấy như mình đang mắc nợ với gia đình bé An. Trán cô nhăn lại rồi dãn ra theo từng luồng suy nghĩ, bao câu hỏi đặt ra, tình tiết nào đã bị bỏ sót? Đầu cô căng như một sợi dây đàn. Tít, tít, tít. Chuông báo tin nhắn của tổng đài. Hoàng Lan nhìn chiếc điện thoại, mắt cô lóe lên một tia sáng. À, chưa kiểm tra hướng cột sóng đã tiếp sóng cho cuộc gọi cuối cùng vào điện thoại của bé An. Hoàng Lan liền gọi cho cô giáo của bé An và được biết, máy điện thoại của bé An vẫn bắt được tín hiệu sau vài giờ bé bị sát hại. Sau khi kiểm tra hướng cột sóng, xác định máy điện thoại của bé An đã di chuyển về hướng của một huyện lân cận, cô liền cử các trinh sát đi thu thập thông tin các đối tượng nghi vấn.
Hai hung thủ sát hại bé An đã bị bắt, đôi mắt Hoàng Lan vằn đỏ khi nhớ lại từng lời khai của hai tên hung thủ, hành động của chúng quá man rợ, khiến cô không khỏi bàng hoàng và ám ảnh. Mắt Hoàng Lan nhòa đi khi hình dung  nỗi kinh hoàng mà bé phải trải qua:
Đi đến đoạn đường rậm rạp bởi cây lồ ô, An hốt hoảng khi hai người đàn ông trên xe nồng nặc mùi rượu chặn mình lại.
- Em xinh quá, dừng lại nói chuyện với hai anh đã nào!
An nói trong hốt hoảng.
- Cháu không quen hai chú, tránh ra để cháu về!
- Rồi em sẽ được về nhưng phải nghe lời anh đã!
An biết sự nguy hiểm đang đến với mình, liền chạy về phía trước, la thất thanh.
C…ứ…u! Cứu…
Có một vật gì đó đập vào gáy mình làm bé choáng váng.
An tỉnh dậy, sợ hãi đến tột độ khi thấy hai tên trước mặt với nụ cười nham nhở.
- Ngoan đi cô bé, ở đây hoang vắng có kêu thì cũng không ai cứu được đâu.
- Cầu xin hai chú thả cháu ra!
Một tên vuốt má An
- Xong việc, anh sẽ cho cưng về.
An bủn rủn chân tay, người cứ giật nẩy lên rồi co rúm lại, mồ hôi túa đầm đìa, hoảng sợ tới cực điểm, bé càng rối trí, càng không biết phải ứng phó thế nào. Chuông điện thoại của bé vang lên, là cô giáo gọi, bé móc vội để gọi cô đến cứu. Nhưng vừa đưa tay vào túi đã bị một tên giật mạnh, rồi nói: “Không ai cứu được em đâu, khôn hồn thì ngoan ngoãn đi”. Bé chợt nhớ, trong giờ kỹ năng sống, cô giáo có nói đến trường hợp này. Bé nằm im, một tên lao tới, bất ngờ, An đưa tay bóp thật mạnh vào chỗ hiểm, hắn đau quằn quại. An liền đẩy hắn ra, chạy thật nhanh để thoát thân. An loạng choạng, chao đảo, phải cố chạy thật nhanh nhưng mỗi bước chân nặng như đang đeo cùm.
- Mày dám láo à?
Lan chỉ kịp nghe tiếng “Bốp” phát ra từ đỉnh đầu, trước mắt An mọi vật đều chao đảo, ngả nghiêng, chung chiêng, rồi tắt lịm.
- Chết! Tao mạnh tay quá, nó tắt thở rồi!
Tên kia hoảng hốt.
- Sao mày lại giết nó?
- Tao chỉ lỡ tay. Thôi lỡ rồi, giờ đưa xác nó đến sườn đồi, làm giả vụ tai nạn giao thông.
Lòng cô quặn đau, sao hai tên hung thủ lại nỡ ra tay tàn độc trên thân xác non nớt ấy. Tiếng kêu cứu của bé An cứ vang vọng mãi trong đầu Hoàng Lan. Bằng tuổi của An, con gái cô được nâng niu từng giờ và cuộc sống có đầy đủ mọi thứ. Bé An thiếu vòng tay chở che của cha, tuổi thơ sống trong sự thiếu thốn. Ngày ngày, đi học trên con đường hoang vắng nên kẻ thủ ác có cơ hội ra tay hãm hại. Hoàng Lan nhớ đến nỗi đau của mẹ bé An trong phút di quan của con, chị ấy run lên bần bật trong đớn đau, tưởng chừng đến hơi thở cũng tứa máu trước sự chia lìa vĩnh viễn. Hoàng Lan nghĩ, nếu con gái của mình bị cảnh ngộ như bé An thì cô cũng đau đớn đến tột cùng như vậy. Cô thấy lòng nặng trĩu khi nghĩ đến người phụ nữ bất hạnh, giờ đây chị lay lắt sống chỉ vì bé Linh. Cô tự nhủ, phải làm việc gì đó mẹ con chị ấy cho lòng mình nhẹ nhõm hơn. 
Hoàng Lan nhẹ nhàng đặt vòng hoa xuyến chi lên bàn thờ, qua làn khói mỏng, cô ngắm di ảnh của bé An, nước mắt tuôn rơi, cô thổn thức với linh hồn bé An: “Con ra đi thanh thản, cô sẽ hỗ trợ mẹ để nuôi em Linh”. Hoàng Lan xót xa nhìn người phụ nữ nhỏ thó đứng bên cạnh mình, trên gương mặt vẫn vẹn nguyên nỗi đau. Hoàng Lan liền nắm tay chị, mong phần nào chia sẻ bớt nỗi đau đang chảy rần rật trong lòng chị. Hoàng Lan nhìn vào đôi mắt nặng trĩu mây mù ấy và muốn nói những dự định của cô, muốn đưa hai mẹ con chị lên thành phố Buôn Ma Thuột để bé Linh có cuộc sống được tốt hơn, chồng của Hoàng Lan đã sắp xếp cho chị làm công nhân công ty chế biến cà phê của anh. Ngoài sân, con gái cô và bé Linh đang đội vòng hoa xuyến chi cho nhau.. Bé Linh thẽ thọt.
- Từ nay chị là chị An của em nhé!
- Ừ, chị sẽ thương em như chị An vậy.
Hoàng Lan dậy lên một niềm vui khi thấy con gái cô và bé Linh như đôi chim sáo đang tíu tít bên nhau, trong mắt hai đứa lấp lánh những tia nắng của buổi sớm mai, cô hy vọng rằng đôi chim sáo kia sẽ xua tan đi những nỗi đau buồn trong lòng hai người mẹ.



Thứ Ba, 26 tháng 9, 2017

GIỚI THIỆU TẠP CHÍ CHƯ YANG SIN SỐ: 301 - THÁNG 9 NĂM 2017 tác giả TRÚC HOÀI

Bạn đọc đã từng biết tác giả Trúc Hoài với tiểu thuyết Từ Sông Krông Bông (Giải A Chư Yang Sin lần thứ 2), với vốn kiến thức dồi dào và sức sáng tạo không ngừng nghỉ, năm nay, tác giả tiếp tục trình làng tiểu thuyết Số phận gia đình. Tác phẩm tiếp tục viết về đề tài chiến tranh cách mạng, thể hiện quá trình đấu tranh gian khổ và đầy mưu lược, dũng cảm của quân và dân Tây Nguyên trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tạp chí Chư Yang Sin hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc một trích đoạn của tác phẩm này.



SỐ PHẬN GIA ĐÌNH
(trích)


 II.
 Ở mảng rừng già chạy dọc theo Quốc lộ 21, cách Buôn Ma Thuột trên dưới hai mươi cây số, quanh năm đội công tác đều lận đận với việc tìm chỗ đóng quân. Bao nhiêu trường hợp đáng tiếc đã xảy ra cũng xuất phát từ việc tìm kiếm này, nên bây giờ đội đã có kinh nghiệm nhiều hơn.
Lúc nào cũng phải chốt tại một nơi có nước. Trong rừng già vùng này thường chỉ có suối nhỏ. Ở cách nước vài chục bước, hay vài chục mét, cả trăm mét, đều tùy nơi mà ứng phó. Muốn có nước ăn uống, phải xé rừng cả trăm mét thì bất tiện quá. Mà đây lại là trường hợp thường gặp vào mùa khô. Qua năm tháng chiến tranh, bọn thám báo, biệt kích cũng trở nên khôn ranh, quỷ quyệt hơn nhiều. Vào mùa khô, khi hành quân thăm dò địa điểm đóng quân của các đội công tác có quy mô số lượng nhỏ hay các đơn vị chủ lực, chúng đều men theo các con suối có nước hoặc men theo các bờ sông; lúc ngược, lúc xuôi dòng, khó lường được. Một người tắm giặt trên suối đều phải tính trước tình huống nguy hiểm có thể bất chợt ập tới.
Thứ đến, đội công tác cũng phải chốt tại một nơi mà từ đó khi xuất quân, đến xẩm tối mới vượt qua được vùng rẫy trống bát ngát để đến chừng sáu giờ rưỡi hay bảy giờ tối vô tới địa bàn công tác. Tới địa bàn sớm hơn không được bởi khi còn ban ngày ban mặt thì không thể vượt qua rẫy trống, còn nếu đến muộn hơn thì chưa làm việc được bao nhiêu với các đối tượng đã định trước thì đã nửa đêm gà gáy, bất tiện vô cùng, muốn hay không cũng phải lui quân vượt khỏi rẫy trống trước khi trời sáng.
Cứ vài tháng phải thay đổi chỗ đóng quân, không ai bảo đảm chắc chắn là  chỗ ở này bọn thám báo đã hay chưa mò tới, chúng có gài mìn đâu đó tại các lối mòn hay chôn lựu đạn trong tro bếp hay không? Biết đâu, vào nửa đêm, pháo 105,155 ly cấp tập nã đạn tới? Biết đâu, lúc mờ sáng, hai chiếc AD6 lao đến đạp bom?
Thượng sách hơn cả là xem chừng vài ba tháng, đến chốt nơi khác. Lần này, đội công tác vùng ven của thị ủy Buôn Ma Thuột có mật danh là BĐ4 bất ngờ phải chuyển chỗ đóng quân lại bởi một lý do hoàn toàn khác. Ba bốn chiếc xe reo khai thác gỗ đã mở đường đi cách chỗ đội đang ở chỉ chừng vài chục mét.
Lần này đội bám trụ trong địa bàn hai ngày liên tục để mở một khóa tuyên truyền cho nhóm thanh niên ba người từ Buôn Ma Thuột ra. Một đồng chí huyện ủy viên được cử xuống giảng bài. Anh chị em trong đội làm nhiệm vụ cảnh giới, bảo vệ. Ăn ngủ, học hành đều diễn ra dưới tán lá cà phê um tùm, muỗi nhiều như trấu. Mở lớp học trong lô cà phê rộng mười mấy hecta, thì bọn thám báo cũng khó mà dòm ngó được. Nếu có động tĩnh gì thì dân liền lên ám hiệu bằng cách chửi chó, la mèo gì đó. Đến gần sáng đội mới rời khỏi địa bàn, do phải tránh rẫy trống, xuyên đường rừng mà đi, nên đến trưa mới về tới nơi, đành kiếm chỗ khác.
Sau khi bật khỏi nội thị vào đầu năm 1969, Bảng được trưởng ban an ninh tỉnh xin ý kiến của Bí thư tỉnh ủy và Bí thư Thị ủy, nhất trí phương án chuyển anh đến đội công tác BĐ4, giữ trách nhiệm đội phó, chuyên theo dõi các mối cơ sở đặc thù của tuyến an ninh. Đội trưởng đội công tác đặc biệt này là một đồng chí Thường vụ Thị ủy. Đội BĐ4 trước có bảy người, hy sinh hai, nay còn năm người, trong đó có một nữ. Giờ thì họ đi rất chậm trong rừng, nét mặt ai cũng trở nên trầm ngâm, bởi ai cũng đang bị một câu hỏi xoáy vào tim óc là tìm chỗ đóng quân mới ở đâu? Đến xế chiều họ mới dừng lại bên con suối đá, nước trong leo lẻo để nấu cơm ăn. Chỉ có vào lúc chờ cơm chín, các ý kiến mới được đưa ra bàn bạc sôi nổi, để rồi nhất trí chọn một nơi khá gần cứ điểm pháo binh của Mỹ trên đỉnh đồi Chư Mleo. Tại đây, từ bìa rừng, lúc sáu giờ chiều có thể vượt qua vùng rẫy trống để vào địa bàn. Đấy là đề xuất của một cậu người Êđê chừng hăm hai tuổi, cho rằng ở ngay trong nách thằng pháo binh Mỹ, chúng nó đâu có ngờ, nên an toàn lắm; lúc nào thấy động tĩnh gì bất lợi thì xách gói nhót đi chỗ khác. Không có sợ đâu.
Mọi người đều biết chỗ ở mới, trước đây có phần e ngại bởi nó gần địch quá, nay quen rồi, cứ ở một thời gian rồi tính tiếp. Một cây cổ thụ đứng sát vách núi, cành lá rậm rạp vươn lên cao che lớp cây dày đặc phía dưới, cây nào thân cũng bằng bắp vế, cao không dưới mười mét. Ngay sau lưng cây cổ thụ, một hang đá ăn sâu vào vách núi chừng ba, bốn mét, trần chỉ cao quá đầu người, là nơi trú ẩn lí tưởng.
Mới để ba lô xuống, có người đã hỏi:
- Ai có món gì không hè, bày ra đây khao mừng nhà mới?         
Một người khác nói:
- Chút nữa tối trời, kiếm con cheo ở đây chắc không khó.           
Một người nữa lên tiếng phản đối :
- Có điên mới nổ súng bên tai bọn nó. Thẳng đường chim bay, từ đây đến bãi pháo chắc bốn năm trăm mét chứ đâu có xa.
Lăn lóc địa bàn nhiều năm nên chẳng thấy một ai lo lắng chi cả. Bây giờ lo nấu cơm, treo võng. Nước ở ngay dưới chân, con suối đầy môn dóc.
Ăn cơm xong, ngoài rừng cây tối đen chẳng kém trong hang sâu là bao. Lựa chỗ khá bằng phẳng trong hang, đốt một đống lửa nhỏ. Hang ấm dần và vui hẳn lên.           
Anh cán bộ tuyên truyền tên Hồng Sơn tươi cười nói:
- Nói khao mừng nhà mới cũng có lí. Tôi có gói Blao hảo hạng đây. Nhớ để nước sôi trăm độ.
Khi tấm bạt rộng bằng tấm tăng che võng được trải gần lửa, mọi người đều xúm lại. Không ai bảo ai, thế mà ai cũng lục trong ba lô, lấy ra cái mình có sẵn. Một bánh kẹo đậu phộng tráng mật to chắc bằng hai bàn tay được bẻ làm đôi, đặt trên lớp lá chuối đã hơ lửa. Chừng một vốc thuốc rê trong túi vải nhỏ. Khoai lang luộc xắt từng miếng bằng ngón tay, phơi vài ba nắng cũng là thứ lương khô có giá. Chỉ còn chờ nước sôi.
Anh Hồng Sơn cầm gói trà trên tay, hỏi mọi người :
- Ai biết pha trà cho ngon?
Nhiều tiếng ồ lên có vẻ ngạc nhiên. Cậu Y Kho người Êđê cười vui vẻ rồi nói bằng giọng của người sõi tiếng Kinh :
- Anh Bốn Sơn cứ giỡn hoài, lính chiến trường thì ai không rành cái mục trà lá.
Anh Hồng Sơn xua tay ngắt lời Y Kho :
- Đâu phải, đâu phải. Còn tùy tay người pha. Cũng là cà phê, cũng là trà hảo hạng, lại có người pha chế ngon, có người làm dở ẹt. Trong đồn điền địa bàn mình đây có con nhỏ bà Sáu Hạnh mát tay số một, trà cám bỏ đi nó pha cũng ngon...
Anh Hồng Sơn không ngờ mấy lời của anh lại mở đầu cho một cuộc đối thoại rôm rả tiếp theo.
- Trời ơi, anh Bốn nói sao lạ. Con gái bà Sáu Hạnh lớn tồng ngồng, chắc hăm mốt hăm hai tuổi rồi, chứ sao kêu nó là con nhỏ. Có lắm, anh hơn nó năm bảy tuổi là cùng.
- Hèn chi tui thấy bà Sáu Hạnh sai con gái ra vườn hái chanh làm cho anh Bốn một ly nước. Bà Sáu còn biết cái nghề của anh Bốn hao hơi, khản tiếng lắm.
- Trà ngấm rồi đó. Để tui làm mấy hớp, coi thử trà lài Bảo Lộc có sánh được với trà Đại Từ, Thái Nguyên không?
Cái bình inốc sáng lóa có chữ USA và cái niềng cũng bằng inốc bao quanh thân bình vốn được dùng cho hàng sĩ quan lính Mỹ. Bây giờ nó bỏ được đến hai nắm trà vô bình, chế đầy nước rồi úp dốc ngược vừa vặn xuống miệng cái ca có quai cầm. Nước trà từ cái ca được rót ra bao nhiêu thì nước trong bình lại hạ xuống bấy nhiêu, không bao giờ nước tràn miệng ca. Đấy là cách pha trà thường thấy ở chiến trường, có tên gọi là trà úp. Thường trà được pha đậm, chỉ cần uống một hớp khi hành quân giữa trưa nắng nóng, ý vị biết bao nhiêu.
Một cậu tên Quỳnh lên tiếng :
- Bây giờ mình chơi dân ca ba miền đi.
Mọi người hưởng ứng, vừa cười vui vừa ăn kẹo đậu phộng, ăn khoai lang, hút thuốc rê, uống nước trà bằng chén sành sứ thường ngày dùng ăn cơm; một ông lão cơ sở trong đồn điền hôm nọ cho đội một chục chén với lời lẽ càm ràm: “Ai lại ăn cơm bằng ca US, thiệt không giống ai”.
Cậu Quỳnh lại lên tiếng đề nghị :
- Anh em mình giành cho phụ nữ thử giọng trước. Bài chòi Bình Định nghe cũng hút hồn lắm.
Cô Quy người Bình Định, trẻ nhất đội, ở tuổi hăm mốt. Nghe Quỳnh giới thiệu, Quy chối đây đẩy :
- Thì anh Quỳnh là ca sĩ của đội, anh ca trước, chớ giọng quê mùa của em thì để sau.
Hồng Sơn đồng tình với Quy và nói thêm:
- Phải đấy, cậu Quỳnh mở màn một bản. Tui nghe đồn cậu ca bản Dạ cổ hoài lang mùi mẫn lắm mà.
Quỳnh với tay lựa trong đống củi ra một đoạn cây dài chừng nửa thước, to bằng cổ tay, rồi nói :
- Ca bản Dạ cổ hoài lang mà thiếu đàn kìm là không đúng ý nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Giờ mình xin cầm cây đàn này để giữ nhịp lời ca.
Rồi anh cất giọng buồn buồn, tâm đắc:
Từ, (là) từ phu tướng
Báu kiếm sắc lên đàng
Vào ra luống trông thơ nhạn
Năm canh mơ màng
(Trông ngóng) trông tin chàng
Gan vàng lại càng thêm đau
Lòng dầu say ong bướm
Xin cũng đừng phụ nghĩa tào khang
Đêm luống trông tin bạn
Ngày mòn mỏi như đá vọng phu
...
Đến đây Quỳnh dừng lại, nét mặt đầy cảm xúc. Anh chợt nói :
- Thôi, chắc mình không nên ca tiếp. Bản này buồn quá. Anh em mình phải vui, khí thế...
Mọi người đều im lặng, cuốn hút theo giọng của Quỳnh. Chỉ một lát sau, Quỳnh nói tiếp bằng một giọng sôi nổi mà vẫn giữ đều đều :
- Hồi đó ở Sài Gòn, tôi đang học tú tài, tham gia phong trào xuống đường, hát cho dân tôi nghe của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn. Tôi quen các anh Huỳnh Tấn Mẫm, Tôn Thất Lập. Tôi quá mê nhạc phẩm có giai điệu rất đẹp của anh sinh viên Trương Quốc Khánh.
Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương.
Cả đội nhịp nhẹ tay, hát theo. Người không thuộc lời bài hát thì cứ lắc đầu, ư a... cuốn hút.
Về tiểu sử của Quỳnh không phải chỉ vắn tắt mấy dòng như anh tự giới thiệu mà còn lắm lênh đênh, không kém phần hấp dẫn. Quê quán tận ngoài vùng mỏ Hòn Gai, vịnh Hạ Long. Ông bố rất mê cải lương. Một hôm có gánh cải lương Lúa vàng từ Hà Nội đến mỏ biểu diễn. Ông kéo bà vợ đi xem, suốt buổi bỏ bà ngồi một mình, còn ông biến đâu mất. Rồi cũng không biết sự tình nếp tẻ ra sao, bà chủ gánh hát lại nhận ông vô giữ chân kéo màn cho các vở diễn. Lúc ấy vào cuối năm 1954, ông kéo vợ và thằng con mười tuổi theo gánh hát vô Sài Gòn. Mẹ Quỳnh bán xôi và sinh tố tại một con hẻm nhếch nhác kề chợ Phú Nhuận. Mười năm lớn lên ở đất Sài Gòn, anh mê cải lương như bố, rồi gặp người của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn khi học đệ nhất cấp. Từ ấy, anh cuốn theo phong trào hát cho dân tôi nghe của Tôn Thất Lập... Khi anh cầm được bằng tú tài toàn phần, nhân chuyến lên Buôn Ma Thuột thăm cậu em phía vợ, ông bố dẫn anh theo, coi chuyến đi là một phần thưởng. Ở Buôn Ma Thuột mới năm ba ngày, Quỳnh bỗng dưng thấy có cảm tình với cô con gái bà bán quán ở đối diện nhà ông cậu, trên đường Nguyễn Trãi, một con đường đất bụi mù. Quỳnh vui miệng nói với ông cậu: Cô con gái đó pha cà phê ngon nhất nhì thiên hạ. Do vậy nên ông cậu giữ Quỳnh lại chơi thêm mấy bữa, bố Quỳnh về trước. Nhưng rồi cái “mấy bữa” đó đã trở thành cả tháng, có lần cô gái rủ anh đi hát cùng nhóm du ca của cô, lang thang đến vài ba buôn ven Buôn Ma Thuột. Cô gái tên Phượng ấy đã hút hồn Quỳnh. Sáng sớm nào đến quán, không thấy mặt Phượng, anh đứng dậy gửi tiền rồi lặng lẽ ra về, không hề một lần nhấc ly cà phê lên miệng. Những lần như vậy, suốt ngày anh ngẩn ngơ… Rồi anh nhận một tin đến độ bàng hoàng…
Cô Phượng đã xuống tóc đi tu, suốt ngày quét bông sứ rụng trắng sân chùa có tên Linh Sơn Tự, một chùa mới xây của một thầy quê Buôn Ma Thuột nhưng đã tu tập tại Linh Sơn Tự bên Đà Lạt có đến mười lăm năm. Vậy là Quỳnh đã yêu một ni cô... May sao ông cậu Quỳnh là một cơ sở của Thị ủy Buôn Ma Thuột, ông không khó khăn khi bố trí cho Quỳnh thoát ly giữa lúc cảnh sát Lạc Giao kiểm tra gắt gao thẻ căn cước...
Chuyện tình với ni cô Phượng, Quỳnh chưa một lần thổ lộ với ai ở đội công tác. Cũng chắc bởi do tình cảm từ cuộc tình mà giọng hát của Quỳnh bỗng sâu đậm hơn...
Đến lượt Quy, cô rút trong túi áo bà ba ra hai chiếc muỗng  nhôm cán dài. Đó là đồ nghề để gõ nhịp khi cô hô bài chòi. Sau mấy nhịp gõ, Quy lên giọng điệu sắc búa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau...
Ngay lúc đó, một tiếng nổ chát chúa của quả đạn pháo 105 bay rú qua đỉnh ngọn đồi có hang lõm họ đang ngồi. Không ai ngạc nhiên, bởi họ đã quen từ chín giờ tối, trận địa pháo đồi Chư Mleo bắn cầm canh cho tới năm giờ sáng ngày hôm sau; cứ bốn mươi lăm phút một loạt ba quả..
Quả đạn pháo thứ ba vừa bay qua, Y Kho lên tiếng ngay :
- Mấy anh thấy cái miệng mình nói có trúng không, ở sát nách thằng địch thì không sợ gì hết. Mình ngồi uống trà sát nách nó, nó muốn bắn bao nhiêu thì kệ cha nó.
Sau ý kiến của Y Kho, đối thoại qua lại bên lửa có phần sôi nổi hơn.
- Ừ thì nó bắn là việc của nó, uống trà với ca hát là việc của mình. Việc ai nấy làm mà.
- Ơ...ơ...mấy anh có nghe tiếng B52 không? B52 vừa bay vừa khóc, thiệt đấy. B52 định rải bom xuống đầu anh em mình, nhưng qua kính viễn vọng, nó thấy anh em mình ở liền kề với đồng đội của nó, nên nó đâu dám đạp bom xuống. Nó chỉ biết khóc rồi bay thằng ra biển, đổ hết bom trước khi về căn cứ.
- Hèn chi Đại tướng Nguyễn Chí Thanh chỉ thị cho lính ta áp dụng chiến thuật đánh gần, cứ nắm thắt lưng địch mà đánh.
- Ông Thanh quả là một người tài. Hồi còn ở ngoài Bắc, ông ấy đi đến đâu , phong trào ở đó nổi nên như cồn. Phong trào Cờ Ba nhất, Sóng Duyên Hải, Gió Đại Phong đều do ông ấy phát động. Vào Nam thì đưa ra chỉ thị nắm thắt lưng thằng Mỹ mà đánh. Ấy, hôm trước đài phát thanh giải phóng đọc như vậy mà.
Nước mình nhỏ mà lắm tướng tài. Mấy anh bên chủ lực E52 đóng quân gần đồn điền Mê Van còn nói có ông tướng Lê Trọng Tấn nào đó hết sức tài giỏi, được mệnh danh là Giucốp Việt Nam. Ối dào, ông anh này hỏi chán bỏ xừ. Thì là ông Giucốp, nguyên soái của Liên-Xô, chỉ huy đánh tiêu diệt phát xít Hít-le tận hồi năm 1945, chớ ai nữa. Bình trà đâu rồi, cho tớ mấy hớp nữa đi. Cái món khoai lang  nghệ này mà ngon hết ý. Có còn nữa không cô Quy, cho tớ một nắm.
- Thôi thôi, các tướng lớn tiếng quá, coi chừng mấy thằng thám báo lẩn quẩn đâu đây...
- Ối giời, đâu có cái chuyện đó. Ban ngày ban mặt, cực chẳng đã bọn nó mới mò vô rừng... Tù binh còn cho biết lính trung đoàn 45 khi hành quân vô căn cứ kháng chiến Krông Bông, có hỏa lực yểm trợ tối đa, mà vẫn sợ, dái muốn thọt lên cổ. Còn mấy thằng lính Mỹ thì điên ráo trọi. Đời một người quý biết bao nhiêu, sao tụi nó không biết sống cho tử tế để làm một người lương thiện, mà chỉ ôm mộng chém giết các dân tộc khác.
- Ừ nói vậy thôi chứ mình đề phòng cẩn thận vẫn hơn.







Chủ Nhật, 24 tháng 9, 2017

GIỚI THIỆU TẠP CHÍ CHƯ YANG SIN SỐ: 301 - THÁNG 9 NĂM 2017 tác giả NGUYỄN VĂN THANH





TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG



Tổng bí thư Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ra tại làng Đông, xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An - thuộc lớp đảng đảng viên đầu tiên của Đảng, là Tổng bí thư thứ hai của Đảng, người học trò gương mẫu và xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là tấm gương về đạo đức cách mạng, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, tinh thần hy sinh cho độc lập tự do Tổ quốc, hanh phúc của nhân dân.

Tổng bí thư Lê Hồng Phong là một người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng.
Chiến tranh thế giới  lần thứ nhất kết thúc, để cứu vãn nền kinh tế suy thoái, thực dân Pháp thi hành chính sách vừa bóc lột nhân dân chính quốc, vừa ra sức bóc lột nhân dân thuộc địa, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam vốn đã cực khổ lại càng cực khổ thêm. Trước tình cảnh ấy, tháng 1-1924, lúc chưa đầy 22 tuổi, đồng chí đã cùng Phạm Hồng Thái sang Xiêm (nay là Thái Lan) rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc) tìm đường cứu nước. Tháng 4-1924, đồng chí gia nhập Tâm tâm xã, một tổ chức cách mạng do Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn thành lập. Tháng 3-1925, đồng chí tham gia nhóm cách mạng đầu tiên gồm 9 người do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và sau đó được kết nạp làm đảng viên Cộng sản dự bị. Cũng trong năm 1925, Lê Hồng Phong dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc vừa là người phụ trách đồng thời là giảng viên chính. Cũng năm đó, Lê Hồng Phong tham gia Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội và cùng với Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, v.v.. điều hành các công tác của Tổng bộ. Tiếp đó, với sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong được vào học Trường Võ bị Hoàng Phố. Trong thời gian này, Lê Hồng Phong còn tham gia hoạt động trong Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông do Nguyễn Ái Quốc và một số nhà cách mạng châu Á thành lập.
Tháng 2.1926, Lê Hồng Phong được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 10.1926, đồng chí được cử sang Liên Xô theo học tại Trường Lý luận quân sự không quân ở Lêningrát (nay là thành phố Xanh Pêtécpua) và tiếp tục theo học Trường đào tạo phi công quân sự ở Bôrítxgơlépxcơ. Trong 3 năm (từ 1928-1931), đồng chí theo học tại Trường Đại học Phương Đông, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Liên Xô và sau khi hoàn thành chương trình đại học, đồng chí đã được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh.
 Tháng 11.1937, Lê Hồng Phong bí mật về Sài Gòn, cùng Trung ương tích cực chỉ đạo việc thực hiện chủ trương chiến lược mới của Đảng. Nắm sát tình hình thực tế, Lê Hồng Phong đã cùng với Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Văn Cừ, quyết định chuyển Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương), nhằm tập hợp rộng rãi hơn nữa đông đảo quần chúng, tranh thủ hơn nữa mọi lực lượng có thể tranh thủ. Mặt trận dân chủ Đông Dương không chỉ bao gồm những lực lượng có tinh thần phản đế mà còn mở rộng đến các tầng lớp tư sản, địa chủ, các đảng phái cải lương ít nhiều tiến bộ, các thủ lĩnh dân tộc, tôn giáo, tán thành đấu tranh vì tự do, cơm áo, hòa bình. Mặt trận không chỉ bao gồm những người tán thành dân chủ thuộc ba nước ở Đông Dương, mà còn bao gồm cả những ngoại kiều, những người Pháp tán thành các khẩu hiệu đó. Trong điều kiện khó khăn và phức tạp của tình hình lúc bấy giờ, chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương của Đảng là đúng, thu hút được rộng rãi mọi lực lượng. Vì vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục phát triển và giành được những thắng lợi có ý nghĩa lớn. Trình độ giác ngộ của quần chúng cao hơn, trình độ tổ chức và lãnh đạo của các tổ chức Đảng vững vàng hơn, các khẩu hiệu đấu tranh chính xác, sát hợp hơn. Tháng 5-1938, lần đầu tiên ở Đông Dương, lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động được tổ chức công khai. Riêng ở Hà Nội, cuộc biểu dương lực lượng ngày 1-5 đã có trên 25 000 người tham dự. Thắng lợi đó đã khẳng định việc thành lập Mặt trận dân chủ là việc làm kịp thời, đúng đắn.
Tổng bí thư Lê Hồng Phong là một Người Cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng là một tấm gương mẫu mực trong việc kết hợp giữa học và hành, lý luận và thực tiễn. Đồng chí Lê Hồng Phong còn là một nhà hoạt động quốc tế nhiệt thành. Ở đồng chí, thể hiện rất sâu sắc lòng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế, cách mạng Việt Nam kết hợp với cách mạng thế giới.
 Khí phách bất khuất và tấm gương kiên trung hi sinh anh dũng của đồng chí Lê Hồng Phong.
Giữa lúc những chủ trương đúng đắn của Đảng đang được sự hưởng ứng mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy họ đấu tranh giành nhiều thắng lợi mới, thì Lê Hồng Phong bị bắt ngày 22-6-1938. Bọn mật thám dùng mọi thủ đoạn tra tấn, dụ dỗ nhưng đồng chí nhất quyết không khai. Không đủ chứng cớ để buộc tội, tòa án của đế quốc Pháp đành kết án đồng chí sáu tháng tù giam và ba năm quản thúc với lý do dùng thẻ căn cước giả. Trong thời gian bị quản thúc ở quê nhà, Lê Hồng Phong đã viết nhiều bài đăng trên các báo công khai của Đảng làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng trong tình hình mới, nhằm tranh thủ tập hợp rộng rãi các lực lượng dân chủ và tiến bộ để đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh.
 Cuối năm 1940, khi đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt, đế quốc Pháp đã ghép thêm tội cho Lê Hồng Phong và đày ra Côn Đảo. Biết Lê Hồng Phong là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và là chồng của Nguyễn Thị Minh Khai, bọn trùm thực dân Pháp ở Nam Kỳ đã ra lệnh cho bọn chúa đảo phải tìm mọi cách hãm hại. Những đòn thù tàn ác, dã man đã làm Lê Hồng Phong kiệt sức dần và mất ngày 5-9-1942 khi vừa tròn 40 tuổi. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lê Hồng Phong còn nói to lời trăng trối cho các bạn tù ở các phòng bên : "Xin chào tất cả các đồng chí. Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng" .
40 tuổi đời, 20 năm hoạt động cách mạng liên tục, oanh liệt và đầy nhiệt huyết, đồng chí Lê Hồng Phong đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết về đồng chí Lê Hồng Phong cùng với những đồng chí là thế hệ cách mạng đầu tiên của Đảng là những người  “..đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trước hết… Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu của mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”. Tại Lễ kỷ niệm 110 năm, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Cuộc đời của đồng chí Lê Hồng Phong trong như giọt sương mai, đẹp như ánh dương buổi sớm. Tấm gương chiến đấu kiên cường và sự hy sinh oanh liệt của đồng chí Lê Hồng Phong vì nền độc lập dân tộc, vì lý tưởng cộng sản sẽ sống mãi trong trái tim các thế hệ người Việt Nam chúng ta”.
Tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc của cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong, đang cổ vũ, tiếp sức chúng ta giành thắng lợi trong sự nghiệp tiếp tục con đường đổi mới đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Đặc biệt, hiện nay Đảng ta đang cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", hơn báo giờ hết, chúng ta càng cần thấm  đẫm hơn những lời cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong căn dặn:  
Khi đã học được lý luận thì “Những người Cộng sản phải hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và thực hành chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo điều kiện hiện thực”.

Lúc thoái trào thì làm cho toàn Đảng thấm nhuần tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm túc “sau mỗi cuộc tranh đấu vô luận thắng hay bại, cần phải nghiên cứu kỹ càng các nguyên nhân để làm bài học, chứ không vì một thắng lợi mà múa tay múa chân, rung đùi, lắc gối, cũng không vì thất bại mà khổ tâm, nản chí, đâm ra do dự, lung lay… Phải lấy vận động tự chỉ trích bôn-sê-vích là một công tác thường trực”. Hết lòng tin tưởng ở nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn, giám sát Đảng, Lê Hồng Phong xác định: “Tốt nhất là kéo quảng đại quần chúng vận động tự chỉ trích”. Đồng chí Lê Hồng Phong cũng nhắc nhở chúng ta: “Kinh nghiệm lịch sử cho ta biết rằng: Vô luận một nư­­ớc nào, dân tộc nào, giai cấp nào, đảng phái nào, nếu trong nội bộ chia rẽ, hành động không nhất trí thì không thể tranh đấu một cách thắng lợi với địch nhân”. Đó là những di huấn chính trị rất có ý nghĩa đối với Đảng ta hiện nay.