Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2018

NHỮNG DÒNG SÔNG DÂN CA ĐẤT NƯỚC… Tùy bút NGUYỄN NGỌC PHÚ - CHƯYANGSIN SỐ: 313 - THÁNG 9 NĂM 2018




Khi viết về Tổ quốc, về đất nước trong chúng ta ai cũng có một dòng chảy văn hóa trong máu thịt của mình về với nguồn cội với truyền thống con Lạc cháu Hồng cùng chung bọc trứng với tâm nguyện: “Hàng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giổ Tổ”. Đất nước Việt Nam từ hình thể địa lý, kiến tạo bao đời đã tạo ra bao tượng hình Tổ quốc. Có nhà thơ ví hình dáng đất nước: “Giống như nàng tiên múa/ lại hóa thành ngọn lửa lúc cuồng phong”. Mềm  mại và quyết liệt, nhu và  cương đã tạo ra cốt cách bản lĩnh và khí phách tâm hồn Việt. Lại có người nhận ra đất nước mang dáng “Con đê trên bán đảo” - lưng dựa vào Trường Sơn, mặt đối diện với biển Đông sóng gió. Bởi lịch sử mấy nghìn năm giữ nước và dựng nước  từ những trang sử hào hùng cái thuở chú bé Thánh Gióng phi ngựa sắt với bụi tre  đằng ngà làm vũ khí giết giặc. Hình ảnh cây tre là biểu tượng cho những phẩm chất dẻo dai, bền bỉ và thẳng thắn  tạo ra sức mạnh diệu kỳ làm nên những pháo đài đan chặt vào nhau như một  tấm áo giáp. Và đặc biệt trong dòng chảy của truyền thống lịch sử văn hóa, đất nước Việt Nam ta bao giờ cũng gắn bó với những dòng sông đã làm nên bao chiến tích. Sông Bạch Đằng đời nhà Trần đã từng đánh tan quân Nguyên với khi phách: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử bắt quân thù”.  Sông Mẹ - Sông Hồng cuộn chảy  phù sa như một thanh gươm cài bên hông thành phố thủ đô Hà Nội. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng hào sảng: “Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn ngàn năm/ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng!”. Sông chảy đến đâu thì bắc lên câu hò, câu hát đến đấy. Bởi có một nguồn mạch văn minh văn hóa sông, trầm tĩnh sông, lắng đọng sông. Đó là phù sa chắt lọc từ tâm hồn con người sống dọc sông đã tạo ra những luyến láy, những nhịp điệu những hào sảng mênh mang, những lắng dịu thẳm sâu…
Sông là nơi bắt đầu cho bao khát vọng để tuôn về, đổ về biển khơi. Sông là nơi khởi thảo những điệu dân ca mang hồn dân tộc. Sông đã mang và chuyển tải bao cung bậc. Sông bên lở bên bồi. Sông có phận sông, và chính con đò trên sông đã tải bao nỗi niềm của sông. Có chồng chềnh, có mấp mé, có duyên phận: “Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy/ Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc” (Hữu Thỉnh). Khi đặt tên sông ta cũng muốn hiền hòa có hậu. Như sông Hương, sông Thương, sông Hiếu, sông Cầu, sông La, sông Lam… với nhịp bằng trôi mãi, êm mãi về xuôi. Nhưng thiên nhiên đâu có chiều lòng người với bao ấm lạnh bất thường đã va đập đã cuộn xiết đã trắc trở để thành sông Mã phi bờm thác trắng để thành sông Hàn lạnh thấu người, để thành sông Kỳ Cùng như một vắt kiệt hết mình trăn trở. Không vì thế mà sông lại không trở thành những cảm hứng đi vào thơ ca nhạc họa. Một “Sông Đuống nghiêng nghiêng…” của nhà thơ Hoàng Cầm, một “Trường ca sông Lô” của nhạc sỹ tài hoa Văn Cao. Một “Du kích sông Thao” của Đỗ Nhuận. Và thật dào dạt mênh mông phóng khoáng về với chín khúc sông Cửu Long giang bát ngát tình người với đất phương Nam với: “Vàm Cỏ Đông ơi Vàm Cỏ Đông”. Ta có thể ví những dòng sông đất Việt giống như những dòng kẻ nhạc với bao thăng giáng, thăng trầm. Ca dao Việt Nam đã viết rất hay: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Nguồn đó là nguồn mạch dân ca truyền từ đời này qua đời khác và bao đời con lớn lên từ lời ru của mẹ. Lời ru có gì lạ đâu từ những câu hát thật ân tình mộc mạc. Âm điệu thì mô phỏng động thái lao động khi xuống biển lên rừng để thành câu hò, câu ví.
Tình yêu quê hương, tình yêu Tổ quốc bắt đầu từ tình yêu khúc hát dân ca, tình yêu dân tộc. Dân ca chính là tiếng lòng sâu thẳm nhất, trung thật nhất. Đó là lời ăn tiếng nói, là ứng xử giao hòa, là kinh nghiệm sống bao đời được chắt lọc đúc kết. Đó là ước vọng, là niềm tin, là cõi thiêng của tâm linh dân tộc. Ta cứ thử hình dung những luyến láy của dân ca sẽ vẽ ra những dáng hình lãnh thổ địa hình thần thái đất nước. Có nhịp mênh mang đắm đuối, có nhịp trắc trở gập ghềnh, có tiếng sáo Mèo vi vút trên không, có nhịp đàn tơ rưng Tây Nguyên cuôn cuộn. Hình như có rất nhiều nhạc cụ dân tộc làm bằng tre nứa, rất nhiều làn điệu dân ca lại gắn với nhịp chèo, có luyến láy, có ví von chứ không thăng bằng khô rắn, không dễ gãy cũng không dễ cong - đó là bản chất của nước, của dân ca nước Việt - Sông Thương gắn với dân ca quan họ Bắc Ninh, sông Mã gắn với điệu hò “Dô tả, dô tà”. Sông Lam gắn với làn điệu dân ca ví giặm, sông Hương dùng dắng với điệu hò mái nhì. Rồi Lý ngựa ô rong ruổi lắm đèo nhiều đốc qua miền Trung sông suối dày tơ nhện. “Một miền Trung núi choài ra biển/ Nên gập gềnh câu Lý ngựa ô qua” (Phạm Ngọc Cảnh). Rồi câu vọng cổ ngân nga nơi rất nhiều kênh rạch ngổn ngang như nỗi lòng...
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong chương “Đất nước” của trường ca “Mặt đường khát vọng” đã chiêm nghiệm rất hay: “Ơi những dòng sông bắt nước từ đâu/ Mà khi về đất nước mình thì bắt lên thành câu hát/ Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền với thác/ Gợi trăm miền trên trăm dáng sông xuôi”. Sông không những tạo ra dáng hình đất nước, phẩm cách và tâm hồn con người mà sông còn là nơi giao lưu gặp gỡ chia sẻ những mạch nguồn văn hóa của dân tộc ra ngoài bờ cõi. Nhưng vẫn giữ trong sâu thẳm lòng mình trọn vẹn lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán, ứng xử văn hóa, không chỉ bằng ngôn ngữ giao tiếp mà bằng cả phong thái cốt cách phong  vị tạo ra cái “vỉa” văn minh lâu đời của người Việt. Sông như một bảo tàng  lưu giữ, đắp bồi, làm phong phú thêm những mùa lúa mùa khoai, mùa đánh bắt tôm cá mà là còn đắp bồi mùa nhân hậu tình người, mùa dân ca đắm đuối, ân tình. Những lễ hội tưng bừng trên bờ đê lộng gió cũng lấy sông làm giải lụa thắt ngang. Chầu quan họ trầu têm cánh phượng cũng lưu luyến níu chân người ở lại. Người đã phải lòng nhau, thương nhau cũng bắt đầu hò hẹn từ sông Thương mà thành đôi thành lứa. Sông dắt ta về tận ngõ, bởi có một dòng sông lai láng trong lòng. Ta yêu đất Việt yêu từ bờ tre xóm nhỏ, từ chợ họp bên sông. Nhà thơ Tế Hanh đã từng đắm say: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi  tóc những hàng tre”. Và ông đã từ mênh mang sông để thảng thốt nhận ra: “Cánh buồm Dương to như một mảnh hồn làng”. Rồi không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ miền núi phía bắc Dương Soái đã chắp cánh cho âm nhạc Thuận Yến bay lên với giai điệu giao đãi bắc nhịp cầu dân ca: “Anh ở đầu sông, em cuối sông/ Uống chung  dòng nước Vàm Cỏ Đông…” Và phải yêu đất nước mình thấm vào máu thịt và tâm thức, tâm hồn của người nông thôn Việt được tắm trong dòng sông dân ca bất tận, thi sĩ Lai Vu mới  có những vòng sóng dập dờn thăng hoa cho âm nhạc Đoàn Bổng: “Dòng sông Đáy quê em/ Sông trăng hay sông lụa/ Nong kén vàng như lúa/ Tròn vạnh một góc trời./ Dòng sông Đà quê anh/ Đã dựng ghềnh, dựng thác/ Nước reo thành điệu nhạc…” Vâng, tâm hồn Việt đã khơi nguồn đã bắt nhịp đã lan tỏa đã thẩm thấu ngân vang  đồng vọng từ những khởi nguồn, mạch đất, nguồn  sông như thế…
Tôi đã nhiều lần di dọc đất nước mình trên con đường số một như một dây đàn bầu thẳng căng và gặp bao dòng sông với bao lưu vực. Sông như một chứng nhân của lịch sử. Có một Hiền Lương đằng đẵng chia cắt đất nước và xa hơn là sông Gianh thời chúa Trịnh - Nguyễn. Nhưng sông chỉ có một màu nước – dù đôi bờ giới tuyến. Nhưng đó chỉ là ngăn cách tạm thời. Và dân ca lại về liền nhịp trọn vẹn cho dòng sông liền một mạch thống nhất đất nước. “Ai đã  đặt tên cho dòng sông”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng hỏi thế. Và ông lý giải bằng “Ai đã sinh ra những dòng sông”, và dòng sông đã sinh những gì không chỉ có phù sa châu thổ địa tầng. Vâng đúng thế, sâu thẳm nhất, lắng đọng nhất vẫn là trầm tích văn hóa. Có những dòng sông tình cảm rất sâu nên rất đỗi lững lờ hiền hòa man mác. Con sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của một nền văn hóa, toàn bộ âm nhạc cổ điển của Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế khắp lưu vực sông. Những điệu hò thấm đẫm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả. Sông đã đánh thức trong ta bao khát vọng vừa sinh sôi vừa hào sảng. Sông len lỏi chảy qua bao luồng lạch nhưng không bao giờ luồn lách bởi một sức mạnh nội tâm cao thượng cường tráng dù có qua bao trận lũ lụt để cuốn  phăng bọt bèo khô rác. Sông lắng lại trả lại trong veo xanh thẳm mộng mơ, chấp  chới vào dào dạt sóng vỗ lòng Bởi: “Sông chảy vào lòng đất nước rất sâu” từ cội nguồn dân ca bất tận…







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI