Ngày 2 tháng 9 năm 1945,
tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước hàng vạn người dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản “Tuyên
ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đây là mốc son chói lọi
trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Ra đời trong hoàn cảnh đó, “Tuyên ngôn Độc
lập” được đánh giá là áng văn lịch sử tiêu biểu, là thiên cổ hùng văn. “Tuyên
ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của
hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam” (Trần Dân Tiên).
Mở đầu bản “Tuyên ngôn
Độc lập”, Hồ Chí Minh nêu “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Bất ngờ nhất
là “những lẽ phải” ấy lại được Hồ Chí Minh rút ra từ hai bản tuyên
ngôn nổi tiếng của nước Pháp và nước Mĩ. Không chỉ người Việt Nam, mà ngay cả
người Mĩ cũng bàng hoàng khi nghe lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một “lời bất hủ” trong bản Tuyên ngôn độc lập năm
1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Để làm nổi bật tính phổ
biến của những lẽ phải, Hồ Chí Minh còn dẫn một câu trong bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Sở dĩ Hồ Chí Minh mở đầu
bản Tuyên ngôn như vậy là vì mấy lẽ:
Thứ nhất, bản “Tuyên ngôn
Độc lập” không phải nói với đồng bào trong nước mà còn tuyên bố trước nhân dân
thế giới, tuyên bố cho bọn đế quốc thực dân đang lăm le cướp nước ta một lần
nữa.
Thứ hai, Hồ Chí Minh muốn
cho nhân dân ta và nhân dân thế giới biết là dân tộc Việt Nam đứng về phía “lẽ
phải”, về phía văn minh của nhân loại.
Cách lập luận đó còn là
tiền đề cho việc kết tội thực dân Pháp.
Những “lời bất hủ” trong
bản tuyên ngôn của Mĩ và Pháp đã trở thành cơ sở pháp lí để Hồ Chí Minh kết tội
thực dân, đế quốc: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ
tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động
của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
Sau khi kết tội thực dân
Pháp một cách khái quát, Hồ Chí Minh nêu những dẫn chứng cụ thể, lột cái mặt nạ
bảo hộ của thực dân Pháp trước toàn thể nhân loại.
“Về chính trị, chúng
tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Lối kể tội của tác
giả hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận trùng điệp như: “Chúng thi hành…”,
“Chúng lập ra…”, “Chúng thẳng tay chém giết…” thể hiện được tội ác chồng chất
của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách dùng hình ảnh của tác giả làm nổi
bật sự tàn bạo của thực dân Pháp. “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu
nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu”.
Về kinh tế, Hồ Chí Minh
cũng kết tội thực dân Pháp từ khái quát đến cụ thể: “Chúng bóc lột dân ta
đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu
điều”. Hồ Chí Minh quan tâm đến tất cả các hạng người như “dân cày và dân
buôn, trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Lập
luận như thế là Hồ Chí Minh muốn tranh thủ sự ủng hộ của khối đại đoàn kết toàn
dân trong công cuộc bảo vệ nền độc lập.
Tội ác lớn nhất của thực
dân Pháp là đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát
xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực
dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng
xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối
năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta
bị chết đói”.
Tác giả cũng không bỏ sót
những tội ác khác của bọn thực dân Pháp như “trong 5 năm, chúng đã bán nước ta
hai lần cho Nhật”, tội “thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa”, tội “giết nốt số
đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Kết tội thực dân Pháp một
cách hùng hồn và đanh thép như vậy, tác giả nhằm đạt được mấy ý nghĩa sau đây:
- Phơi bày bản chất tàn
bạo, dã man của thực dân Pháp, lột mặt nạ “khai hoá”, “bảo hộ” của chúng trước
nhân dân toàn thế giới.
- Khơi dậy lòng căm thù
của nhân dân ta đối với thực dân Pháp để nhân dân ta quyết tâm bảo vệ nền độc
lập vừa mới giành được.
- Biểu dương sức mạnh của
nhân dân ta trong công cuộc chống thực dân phong kiến để giành lấy nền độc lập
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đánh đổ các xiềng xích
thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh
đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà”.
- Biểu dương truyền thống
bất khuất của dân tộc, nhằm kích thích tinh thần tự hào dân tộc, kích thích ý
chí đấu tranh để nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp. Mặt
khác, nhằm cảnh cáo những kẻ thù ngoại bang mà nguy hiểm nhất là thực dân Pháp
lúc bấy giờ vẫn chưa từ bỏ mộng “bảo hộ” nước ta một lần nữa.
Đoạn văn trên được tác
giả diễn tả đầy hào khí. Chỉ có 9 chữ (“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại
thoái vị”) mà Hồ Chí Minh dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động
và cực kì oanh liệt của dân tộc ta.
Hồ Chí Minh cũng khéo léo
tranh thủ sự ủng hộ của Đồng minh đối với nền độc lập mà dân tộc ta đã đổ xương
máu để giành lại: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những
nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết
không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”.
Sau khi trình bày những
lí lẽ hùng hồn và đanh thép, thấu lí, đạt tình, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập:
“Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Với
lời tuyên bố hùng hồn và đanh thép đó, một lần nữa, Hồ Chí Minh dẹp tan mối
hoài nghi của một số người trong nước và nhân dân thế giới về nền độc lập của
dân tộc Việt Nam. Người cũng nêu lên nhiệm vụ trọng đại của dân tộc ta trong
giai đoạn này là “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
“Tuyên ngôn Độc lập” là
kiệt tác của Hồ Chí Minh. Bằng tâm huyết và tài hoa, Người đã thể hiện được khí
phách của cả một dân tộc từ nô lệ bùn đen vùng dậy chống đế quốc, thực dân
phong kiến, giành độc lập tự do cho nước nhà.
Với “Tuyên ngôn Độc lập”,
lần đầu tiên nước Việt Nam hiện diện trên trường quốc tế với tư cách là một
nước tự do và độc lập và nhân dân thế giới cũng thấy được tinh thần quyết tâm
bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Tầm vóc của dân tộc có thể nói lớn dần
lên từ đó trong con mắt nhân loại.
Kỉ niệm Ngày Quốc khánh,
đọc lại “Tuyên ngôn Độc lập” – áng văn bất hủ của Hồ Chí Minh – lòng ta càng
thêm tự hào về truyền thống anh dũng bất khuất của dân tộc trong suốt chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha; càng thêm tự hào về vị lãnh tụ kính
yêu, đã hi sinh cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
hạnh phúc của nhân dân.
“Tuyên ngôn Độc lập” mãi
mãi ngân vang trong tim mỗi người dân Việt Nam về hào khí một thời của cha anh.
Nó tiếp thêm sức mạnh, cổ vũ chúng ta trên con đường đi tới tương lai vì một
nước Việt Nam hùng cường, độc lập, tự do, hạnh phúc!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI