TỜ
LỊCH CUỐI NĂM
Mỏng
manh tờ lịch cuối năm
Nhẹ
tênh rơi xuống chỗ nằm ...
Vọng âm
Thoảng
như hơi gió vương trầm
Thoảng
như sương khói môi thầm thĩ xa
Mơ
màng trở lại lật qua
Ngày
chia hai nửa trẻ - già đây ư?
Nửa xanh chớm nhạt ngôn từ
Nửa
vàng như đã lại như chưa vàng
Cháy thầm trong lửa thời gian
Vui buồn cũng hóa tro than vô tình
Cuối
năm mình tiễn tuổi mình
Mỏng manh tờ lịch rập rình...
Gió bay!
NGUYỄN NGỌC HƯNG
LỜI BÌNH:
Hơn ba mươi năm nằm bệnh, trở trăn với biết bao đau
thương của số phận đời mình, Nguyễn Ngọc Hưng làm thơ như một căn duyên tiền
định. Thời gian biến thiên dời đổi, thoắt thôi mái đầu xanh ngày nào đã hóa thành một
vùng mây trắng, phiêu
hốt bay qua năm tháng cuộc đời. Một ngày cuối năm, cầm tờ lịch trên tay, nhà
thơ bồi hồi xúc động, để rồi bâng khuâng trong một mối cảm hoài qua bài thơ Tờ lịch
cuối năm.
Bài thơ được làm theo thể lục bát, gồm mười hai câu,
ngắt thành ba khổ nhưng đã có những biến hóa, cách tân về hình thức nghệ
thuật. Mượn tờ lịch cuối năm "nhẹ tênh rơi xuống chỗ nằm", thi phẩm có tính tổng kết,
chiêm nghiệm về đời người, về thời gian trong cõi nhân sinh vốn dĩ vô thường,
hư ảo. Có lẽ sự tồn sinh đầy kỷ niệm dứt day ấy được Nguyễn Ngọc Hưng chạm khắc
trong khổ thơ đầu khá điêu luyện bằng thể lục bát biến hóa tài tình:
Mỏng
manh tờ lịch cuối năm
Nhẹ
tênh rơi xuống chỗ nằm ...
Vọng âm
Thoảng
như hơi gió vương trầm
Thoảng
như sương khói môi thầm thĩ xa
Với con người bình thường, mỗi khi năm hết Tết
về, nhìn tờ lịch cuối cùng rơi xuống, đã nghe lòng dâng bao nỗi xuyến xao đan
xen muôn ngàn bâng khuâng, tiếc nuối. Hơn ai hết, Nguyễn Ngọc Hưng thấu rõ điều này,
bởi anh mắc chứng bệnh nan y, chân tay co rút, đau thương lắng lại giữa bốn bức
tường xám ngắt, cô đơn. Chính phút giây lắng đọng trong thời khắc giao mùa, dù
tờ lịch "mong manh" rơi xuống "nhẹ tênh", tác giả vẫn nghe
chỗ nằm của mình một khúc "vọng âm". Hai từ "vọng
âm" được nhà thơ vắt thành một dòng thơ độc lập, đầy ám ảnh. Thế mới biết, chính hoàn cảnh
đặc biệt đã sinh nên cái tình thi sĩ quá lớn lao, nó là một cuộc trở
trăn không dễ gì bù đắp nổi. Bao nhiêu kỷ niệm ùa về chan chứa, tất cả thơm tho
"như hơi gió vương trầm", "như sương khói môi thầm thĩ xa".
Đó là "vọng âm" của tình yêu xa cách, là thanh âm cuộc đời đã với quá
tầm tay. Thương cảm và đắng chát, nhìn tờ lịch cuối năm, thêm một lần nữa
Nguyễn Ngọc
Hưng day dứt đến phận người. Dù không bi thiết như Đặng Trần Côn: "Trăm
năm rồi có gì đâu/ Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì", tác giả vẫn dào lên bao nét suy
tư, cảm thán về sự nghiệt ngã của thời gian quá vội:
Mơ
màng trở lại lật qua
Ngày
chia hai nửa trẻ - già đây ư?
Nửa xanh chớm nhạt ngôn từ
Nửa
vàng như đã lại như chưa vàng
Khổ thơ hay ở câu hỏi tu từ mang mang nỗi niềm tiếc nuối.
Cầm tờ lịch "mơ màng trở lại lật qua" để rồi nhận ra hai nửa "trẻ
- già" trong một thực thể tồn sinh của kiếp người đau buốt. Những câu thơ
chứa đầy trắc ẩn, không những cất lên từ chính cuộc đời tác giả mà nó còn là
quy luật muôn thu của cõi thế vô thường. Thảo nào xưa cụ Nguyễn Du từng hô gọi
trong một tâm thức hiện sinh: "Sống nay không rót cạn bình/ Chết rồi tưới
rượu mồ mình, biết ai?". Cụ Nguyễn Công Trứ thì cảm thán về thời
gian ngắn ngủi đời người: "Ôi nhân sinh là thế đấy/ Như bóng đèn, như mây nổi, như gió
thổi, như chiêm bao". Đến Nguyễn Ngọc Hưng, sau câu hỏi tu từ đầy trắc ẩn,
là cả một chuỗi suy tư sâu lắng đến ngậm ngùi: "Nửa xanh chớm nhạt ngôn từ/
Nửa vàng như đã lại như chưa vàng". Tất cả cứ dở dang, phiền muộn đến nao
lòng!
Hai khổ thơ đầu là tâm chấn của nỗi đau thời gian hiu
hắt, chóng phai quất vào cõi lòng thi nhân mối sầu dâu bể. Sau những cảm
xúc "mơ màng trở lại lật qua" đầy dứt day, chua xót ấy, nhà thơ dường
như bừng ngộ để rồi nhận ra cái lẽ thường tình của cõi nhân gian. Tất cả
rồi "cũng hóa tro than vô tình" như một quy luật tất yếu. Xuyên thấu lẽ
đời, khát vọng "cháy thầm" trong khoảnh khắc giao mùa khi tờ lịch cuối
cùng sắp hết, tác giả bâng khuâng "mình tiễn tuổi mình". Dường như
chính trong cái tàn phai, rơi rụng kia lại bắt đầu cho một điều gì sinh sôi mới mẻ.
"Ô hay, cái mất lẫn trong cái còn" mới là cảm thức mà tác giả muốn
nói với ta chăng? Thì đây, chính cái giọng điệu của khổ thơ cuối bài đã phần
nào làm vơi
bớt nỗi sầu vạn cổ về sự mong manh, hữu hạn của kiếp người:
Cháy thầm trong lửa thời gian
Vui buồn cũng hóa tro than vô tình
Cuối
năm mình tiễn tuổi mình
Mỏng manh tờ lịch rập rình...
Gió bay!
"Cháy thầm" để rồi sinh hóa một mầm sống mới.
Tờ lịch cuối năm rơi để bắt đầu khai mở cho mùa xuân tươi đẹp lại về, xênh xang
cùng hoa bướm thần tiên.
Không mòn sáo trong nghệ thuật của thể lục bát
quen thuộc, cảm hứng nhân sinh phổ quát được nhìn qua lăng kính của phận đời
mình, bài thơ Tờ lịch cuối năm của Nguyễn Ngọc Hưng thấp thoáng một nỗi buồn cô đơn dịu
vợi, một cảm thức mong manh, hư ảo của kiếp người. Song, cao hơn hết, đó còn là
phút giây "cháy thầm" hiến dâng lặng lẽ để mang đến mùa xuân bất tận cho đời.
Không hiểu sao,
tôi vẫn có cảm giác là "tờ lịch cuối năm" của Nguyễn Ngọc Hưng vẫn
treo vào thời gian bất tử, nó không rơi xuống bao giờ, như "chiếc lá cuối
cùng" trong đêm mưa gió của nhà văn O. Henry vĩ đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI