Nhà thơ TRẦN PHỐ
Thơ ca hấp dẫn từ cổ chí kim bởi không những dễ làm
xúc động và lấy đi nước mắt của người đọc, có khả năng từ trái tim đi thẳng đến
trái tim mà còn giúp ta bừng ngộ và khám phá ra bao chân lý ở đời thông
qua tính triết luận sâu sắc. Đó chính là sự hài hòa thẩm mỹ giữa cảm xúc và lý trí, giữa sự
rung ngân của con tim biết hát và một trí tuệ giàu suy tưởng về lẽ người,
lẽ đời. Đọc tập "Đủng đỉnh trăng về" của nhà thơ Trần Phố, ta bắt gặp cảm hứng
triết luận trở thành cảm hứng chủ đạo của thi tập, dù vẫn biết một sô tác giả
đã nghiên cứu qua các phương diện khác, nhưng tôi cũng xin lạm bàn thêm vấn đề
trên như góp một tiếng nói cá nhân trước đứa con tinh thần của người thầy, người
anh mà mình quý mến.
Hiểu một cách thông thường nhất, triết luận là triết
lý và luận bàn về một vấn đề, một khía cạnh của đời sống nhân sinh từ những
chiêm nghiệm, nhờ đó giúp cho nhà thơ có cái nhìn thấu đáo và sâu sắc hơn về cuộc
đời và con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Tính triết luận trong thơ
làm cho bài thơ sắc cạnh, độc đáo và dễ ấn tượng hơn với người đọc nhờ vào tứ thơ đã siêu
thăng thành quan niệm sống của cá nhân thi sĩ. Vì vậy, triết luận thiên về suy
tưởng, biện giải nên bao giờ cũng thấm thía và có chiều sâu nhận thức. Bên cạnh
tính triết luận là tính trữ tình trong thơ. Đó là trạng thái cảm xúc của
tác giả được thăng hoa và kết đọng lại trong lòng người đọc những rung cảm thẩm mỹ. Nếu triết
luận thiên về lý trí, suy tưởng và mang tính logic thì trữ tình lại đi thẳng vào trái
tim, khơi dậy những
rung động ở lòng người. Tuy nhiên, triết luận là một khái niệm có nội hàm phong
phú, nó bao chứa cả triết lý và cả hình thức triển khai tính triết lý ấy trong
một chỉnh thể nghệ thuật. Vì vậy, tính triết luận trong thơ thường
chi phối đến bút pháp
nghệ thuật và hình thức kiến tạo tác phẩm của nhà thơ.
Ngay từ nhan đề đề thi tập, "Đủng đỉnh trăng về"
đã gợi mở ra một quan niệm, triết lý của tác giả về lẽ sống, về khát vọng hướng đến.
Ánh trăng là không gian soi chiếu kỳ vĩ của vũ trụ. Từ xa xưa, trăng đã trở thành
niềm mơ ước, là vẻ đẹp thanh cao mà con người khao khát chiêm ngưỡng hầu mong
thấu suốt những chuyển động vô cùng, vô lượng của đất trời vi diệu. "Đủng
đỉnh" lại là một trạng thái thong thả, chậm rãi và hầu như rất lặng lẽ. Đó
là vẻ đẹp từ tốn tỏa ra từ trong cuộc sống đời thường. Ánh trăng kỳ vĩ giữa tầng
không xanh thẳm, nhưng chỉ với trạng thái "đủng đỉnh", nhàn du quả là
một ám dụ nghệ thuật. Hai từ láy "đủng đỉnh" kết hợp với cụm danh từ
"trăng về" đã làm nên sự đối thanh giàu ý nghĩa, đầy tình ý mà tác giả
muốn gửi gắm chăng ? Tính triết luận có lẽ cũng nằm ở chiều sâu ấy. "Đủng
đỉnh trăng về" trở thành một lời tâm niệm, một mong ước về đời sống thanh
bình, yên ả; một khao khát vĩnh hằng về cái đẹp sẽ ngự trị, lên ngôi.
Chúng ta đều biết, tính triết luận là một phẩm chất
quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, góp phần làm nên phong cách thơ
cho tác giả. Trong 62 bài thơ của tập "Đủng đỉnh trăng về", tính triết
luận hầu như bàng bạc, xuyên thấm qua nhiều tác phẩm. Lý giải cho điều này, tôi
nghĩ trước tiên nằm ở cái tạng thơ của thi sĩ Trần Phố. Hơn nữa, khi đã chạm đến tuổi lục tuần,
đi qua một vòng hoa giáp, con người ta nhìn đời, nhìn người với những chiêm nghiệm, day
trở và lắng sâu
hơn âu cũng là chuyện thường tình. Qua tập thơ, ta bắt gặp một Trần Phố triết
luận từ rất nhiều đề tài khác nhau trong cuộc sống. Anh luận bàn, triết lý về tự
do; anh cảm khái về "tài mệnh tương đố", lợi danh - quyền
chức; anh suy tưởng về sự
dấn thân rong ruổi; anh chất vấn, trăn trở về thời cuộc - vận nước; anh triết
luận về hạnh phúc - thành công; anh xót xa, dằn vặt trước những đau khổ hàng
ngày mà con người phải gánh chịu; thậm chí cả cái tôi - bản thể, ... cũng được
nhà thơ Trần Phố đào sâu, "nội soi" bằng những câu thơ giàu triết luận.
Vẫn biết bản chất của thơ là cảm xúc trữ tình, nhưng nhờ tính triết luận thông
qua vốn sống, vốn văn hóa phong phú của tác giả đã mang lại cho tập thơ "Đủng
đỉnh trăng về" tính tư tưởng sâu sắc.
Tự do vốn là một khao khát vĩnh cửu và thường
trực của con người. Nhẹ nhàng mà sâu lắng, trần tình mà đậm chất suy tưởng, bài thơ Hai
cây khế là một đối sánh giàu tính triết luận: "Cây khế ngoài vườn thân thẳng
vút cao/ Cây khế trong chậu sành vặn cong vì cắt tỉa/ Đời chật chội làm cảnh
mà vô nghĩa.../ Cây khế trong chậu sành mơ được tự do". Quả vậy, Hai cây
khế cũng chính là cái nhìn nhân sinh đầy ẩn dụ của tác giả. Lấy lòng mình để
cảm lòng ngoại vật, thấu hiểu được "cây khế trong chậu sành mơ được tự do"
là một triết luận sâu sắc, tứ thơ nhờ đó cũng được đẩy xa hơn, khắc khoải
hơn trong lòng người đọc. Bên cạnh triết luận về tự do, ở bài Lệ Chi Viên, ta lại
bắt gặp một triết luận khác của nhà thơ Trần Phố. Cái án tru di tam tộc Nguyễn
Trãi sau sáu trăm năm vẫn còn nhỏ máu trong lòng hậu thế. Nỗi đau phận người đã
đành, xót xa cho một tấm lòng "đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông" (Thuật hứng 5 -
Nguyễn Trãi) khiến tác giả day dứt, trăn trở về "tài mệnh tương đố".
Trần Phố thấy Nguyễn Trãi "cao vời" mà "cô độc đứng giữa đời",
hiểu được mặt trái của nhan sắc cũng "châm ngòi ma quỷ" để rồi cảm khái mà ngậm
ngùi thương tiếc một vĩ nhân: "Tất cả vì đời mà sao Khuê bỗng tắt/ Héo
mòn cây cỏ, buốt ngàn thu".
Dường như đối với nhà thơ Trần Phố, nhìn sự vật, hiện
tượng gì trong đời sống nhân sinh anh cũng muốn đưa ra một quan niệm sống của
chính mình. Chính tư duy có nhu cầu biện giải, tấm lòng muốn trải ra với cuộc đời
gần như thuộc về bản năng ấy đã giúp thơ anh đến gần với triết luận. Một dòng
sông, mặt hồ, ao cá hay biển cả bao la... đều được Trần Phố soi ngắm, chiêm cảm bằng
chiều sâu của tư
duy và suy tưởng đậm màu triết luận. Nhìn đàn cá trong hồ ao thi nhau đớp mồi, thi
nhân nghĩ ngay đến cái duy lợi ở đời. Đàn cá kia thấy "béo bở miếng mồi"
thì "lên lúc nhúc". Không dừng ở lợi danh thuần túy, cái mặt hồ bị
"ăn nát" kia đâu chỉ là chuyện của một người, một nhà mà là nỗi đau của
phận nước non. Nhờ đó, nỗi xót xa và phẫn nộ của tác giả được bùng vỡ trong bài
thơ dù rất ngắn và giản dị này: "Nước suối trong/ Nước hồ ao đục/ Béo bở
miếng mồi cá lên lúc nhúc/ Chúng tranh ăn nát mặt hồ" (Cá ao hồ). Thấu
hiểu lẽ đời, nhà thơ Trần Phố thấy lợi danh kia với mình "lởn vởn trược
đường đời" nên tâm hồn nhẹ thênh mà tự hát rằng: "Con chim hạ cánh
trong vườn trúc/ Nằm giữa giao mùa tự hát chơi" (Tự hát). Triết luận
thế là hay, nhẹ nhàng mà vô cùng thấm thía. Cũng triết luận về lợi danh, có lúc thơ anh bộc
trực thẳng thẳng, nhất là nói với tuổi trẻ - thế hệ rường cột của nước nhà:
"Đừng vào cổng thấp/ Dễ còng lưng, vỡ trán/ Mê chi danh hảo, mộng hờ/
Cúi đầu hèn hạ/ Chẳng làm kẻ yếu mềm, vâng dạ/ Làm con chim vỗ cánh vút trời
xanh !" (Nói với tuổi trẻ thời hội nhập).
Trong tập thơ "Đủng đỉnh trăng về", tôi vẫn
thích một số bài thơ vừa giàu màu sắc triết luận nhưng cũng đậm chất trữ tình.
Hai đặc điểm trí tuệ và cảm xúc kết hợp hài hòa đã làm nổi bật tứ thơ, đồng thời
làm tăng giá trị biểu cảm. Hãy nghe nhà thơ triết luận về sự dấn thân, hi sinh để
"tô hồng phù sa" của một "đời sông": "Chảy qua mưa nắng xôn xao/
Chảy qua ghềnh thác càng cao tấc lòng/ Chảy qua đục để rồi trong/ Một đời chảy
để tô hồng phù sa" (Đời sông). Hình tượng thơ nhờ đó phiêu hốt, hấp dẫn và
dễ đi vào lòng người. Từ sự biết hi sinh, dấn thân để đắp bồi cho tương lai của
một "đời sông" đến triết luận về sự an hòa, yêu thương của một đức
vua là một điều không quá bất ngờ. Triết luận về lý tưởng nhân nghĩa, hòa ái, đức trị thể
hiện khá nổi bật trong bài thơ Vua Trần Thánh Tông. Với nhà vua, thân dân là diệu
kế, là điều kiện cho đất nước thái bình, thịnh trị, giữ âu vàng muôn thuở:
"Hòa ái, thân dân, nhân hậu/ Người vì dân, dân nước an bình/ Rèn súng,
đúc thuyền tập trận.../Người anh minh cao vút tầm nhìn" (Vua Trần Thánh
Tông). Học tập từ vị vua anh minh, nhà thơ khuyên bạn mình trong ngày nhậm chức:
"Chặn sông, sông sẽ thét gào/ Thân dân diệu kế thâm cao/ Đức trị thẳm trong pháp trị/ Một
vùng vui tựa Thuấn, Nghiêu" (Tặng bạn ngày nhậm chức). Từ nói
với bạn đến khuyên con về hạnh phúc, thơ Trần Phố trước sau vẫn sâu lắng tâm tình, bày
giãi nỗi lòng lồng trong một quan niệm sống đầy triết lý. Có điều những triết luận của anh tùy vào
đối tượng, vì lẽ nói với con nên dịu dàng, lắng dịu: "Đường đời không
có hoa hồng/ Sự nghiệp của tiền không từ trời rơi xuống.../ Sông cũng phải thác ghềnh lận đận/
Mới chảy về tới biển bao la" (Nói với con về hạnh phúc)
Cảm hứng thế sự với những gì đang diễn ra hàng
ngày đã giúp nhà thơ thể hiện quan niệm sống, bày tỏ những suy tư trước cuộc đời là mảng
thơ khá đặc sắc của tác giả "Đủng đỉnh trăng về". Thâm trầm trong chiều
sâu nhận thức, Trần Phố triết luận về thời cuộc, vận nước từ một bài thơ nhỏ nhắn
mà tinh tế, sắc sảo. "Gởi tráng sĩ" hay đó là tấc lòng của thi nhân
ký thác đến mọi người với tư cách công dân: "Xưa sông dịch lạnh ghê/ Tóc dựng
ngược ra đi/ Ngày biển Đông nổi sóng/ Tráng sĩ nói câu gì ?" (Gởi tráng
sĩ). Rồi bao nhiêu nỗi đau, đổ vỡ, mất mát tang thương trong cuộc sống hàng
ngày giữa một thế giới bất an đã khiến nhà thơ chạnh niềm thương cảm. Ô tô cán
chết một em bé trong lòng phố ở Trung Quốc, đường Láng Hòa Lạc tai nạn xảy ra
trong sự thét gào đau đến tận cùng của cõi nhân gian nào ai thấu hiểu ? Tiếng chuông nhà
thờ, chuông chùa vẫn trôi vào hư vô, tượng vĩ nhân ngơ ngác, chỉ có nhà thơ đau
nỗi đau trần thế như người rơi xuống vực sâu: "Nhà thơ/ Rớt xuống dòng/ Ôm ngực/
Nén cơn ho" (Tin hàng ngày) Từ đó, nhà thơ triết luận về cái thiện
và cái ác đôi khi cùng song hành tồn tại, không dễ gì trừ khử ngay được: "Có loài sâu
đê hèn, độc ác/ Chui luồn, đục khoét hại cây/ Có loài chim thơm thảo, thẳng
ngay/ Hôm sớm bắt sâu, bạn cùng hoa lá" (Chim và sâu).
Ngoài sự mở lòng mình để hướng đến cuộc đời rộng
lớn, bày giãi cảm quan đối với tha nhân, nhà thơ Trần Phố đã có nhiều bài thơ súc tích,
đậm tính triết luận khi đào sâu vào cái tôi - bản thể để nhìn ngắm, chiêm nghiệm.
Thơ Trần Phố dễ đi vào lòng người chính nhờ khả năng cảm hóa, thấu hiểu với tha
nhân vậy: "Cái tôi càng bé nhỏ/ Đất trời càng bao la/ Trong gió mưa
quay quắt/ càng thương người, thương ta !" (Trong gió mưa). Trong tình
yêu, thơ Trần Phố chủ yếu là cảm xúc nồng nàn, yêu thương hoài nhớ, song ta
vẫn bắt gặp những câu thơ ánh lên màu sắc triết luận về cái tôi tình yêu siêu
thực, hư hao: "Tôi đi tìm trăng, trăng đã xế/ Trăng lạc cuối
trời đêm mênh mông/ Thăm thẳm đường xa, thăm thẳm tối/ Tôi lạc thân tôi giữa mịt
mùng" (Tìm trăng).
Đọc tập thơ "Đủng đỉnh trăng về" của nhà thơ
Trần Phố, thiết nghĩ rằng, chính tính triết luận đã làm nên nét riêng biệt và độc
đáo của thơ anh về mặt giọng điệu. Bởi lẽ, dù viết với bút pháp hết sức dung dị,
song nhiều bài thơ trong thi tập đã mang một giọng điệu riêng do chi phối từ tính triết
luận. Nhà thơ Trần Phố, có khi từ một hiện thực rất đơn giản của đời sống mang lại,
cũng đủ giúp anh xây dựng nên một tứ thơ khá hay. Hãy nghe chất giọng trang
nghiêm - triết lý trong bài thơ Lời chim: "Chim sẻ/ lách chách sân nhỏ/ Chim
hồng/ im lặng/ ngàn mây". Lá trở lại là giọng thơ trắc ẩn về phận người
trong cuộc sống nhân sinh: "Gió chiều trở phiến lá xanh/ Mong manh như
thể tơ mành chênh chao/ Chập chùng đồi thấp núi cao/ Bao nhiêu lá trở, bao
nhiêu phận người". Bài thơ Nhìn lại thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của
tác giả về thời gian, sự vô thường của kiếp người. Đó là kiểu triết luận không
mới, nhưng xúc động nhờ vào giọng điệu u hoài - trắc ẩn của tác giả. Chính từ cảm
thức "ta chạm vô thường, chạm sắc không", nhà thơ mới ngộ ra rằng cuộc
đời "xem ra mọi chuyện cũng con con": "Mới đó, trăm năm đà tỉnh
thức/ Rồi đây, muôn thuở sẽ phiêu bồng/ Những tưởng nắng chiều trăm sự hiểu/
Đâu ngờ mưa sớm vạn điều không" (Nhìn lại).
Tính triết lý chi phối đến giọng điệu nghệ thuật, giọng
điệu lại được tạo thành từ các biện pháp nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả.
Nhà thơ Trần Phố, chí ít là trong tập thơ này, đã sử dụng thủ pháp đối lập
trong rất nhiều thi phẩm khá thành công: Cực đoan, Hai cây khế, Đời sông, Cá hồ
ao, Thông điệp đầu xuân, lời chim, Sâu và chim, Trong gió mưa... Ta hãy đọc một đoạn thơ
trong bài Thông điệp đầu xuân: "Trời đã vào xuân đời vẫn đông/ I - rắc, Xi
- ry vẫn rét về/ Thương lắm đó đây còn ngập máu/ Mẹ già con trẻ khóc ly
quê". Anh triết luận về chiến tranh, về bạo tàn, về quyền lực
thông qua thủ pháp đối lập, vì thế đã tạo nên chất giọng nghiêm trang, nhờ đó
mà tính triết luận thêm thâm trầm, sâu sắc. Ngoài ra, nghệ thuật sử dụng câu hỏi tu từ
để tạo nên giọng điệu vừa trang nghiêm, vừa chất vấn nhằm làm nổi bật tứ thơ
cũng như tính triết luận qua nhiều thi phẩm của "Đủng đỉnh trăng về".
Tôi đã thống kê ra đây một số câu thơ như thế: "Thánh thần có hờn ghen/ Hỡi núi
cao biển rộng/ Còn bao Lệ Chi Viên/ Còn bao nhiêu ác mộng ?" (Lệ Chi Viên).
"Phật trời từ thuở lên ngôi/ Hình như quên mất nỗi đời bất công/ Mất còn, sống chết, sắc
không.../ Sự đời phó mặc vô thường phải chăng ?!" (Hỏi).
"Sông khi bồi, khi lở/ Hồ lúc nông, lúc sâu/ Vạn vật rồi hưng phế/ Cuộc đời rồi bể dâu.../ Vẫn hiểu
là quy luật/ Mà sao còn nhói đau ?" (Quy luật). "Phật đã dạy ngàn
lần trung hậu/ Sao còn phục dưới vườn hoa ?" (Gởi rắn). "Cửa xẻ, lửa
reo, cây đổ.../ Tượng nhà mồ hốt hoảng/ Xe kéo, xe câu... gỗ về đâu ?/ Dã quỳ ngơ
ngác/ Suối trơ xương đêm trường im tiếng hát/ Hoảng hoạn chim rừng rã cánh canh
thâu.../ Ta làm gì cho thế hệ mai sau ?" (Chuyện rừng). "Nhẹ bước
hoàng
hôn/ Bạn cùng hoa bướm/ Hình như còn vướng/ Cuộc đời quắt quay ?" (Vướng ?)...
Tóm lại, đọc tập thơ "Đủng đỉnh trăng về" của
nhà thơ Trần Phố, thấy thơ anh mang hơi hướng cổ điển, phảng phất ý vị triết luận
mà anh học được từ các nhà thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du...
trong văn chương trung đại Việt Nam. Chính màu sắc triết luận đã làm cho nhiều
bài thơ trong thi tập giàu ý tứ, sâu sắc về tư tưởng. Nhìn chung, tính triết luận
trong thơ Trần Phố phần lớn tan hòa, kết hợp nhuần nhị với thế giới cảm xúc đậm chất
trữ tình. Nhờ đó, vẻ đẹp nhân văn được phóng chiếu; niềm vui thong dong, nụ cười
đôn hậu và niềm tin yêu vào cuộc sống vẫn tỏa sáng lung linh xuyên suốt 62 bài
thơ súc tích, ngân lên từ trái tim thấm nỗi tình đời.
Buôn
Hồ, tháng 12.2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI