Từ sau năm
1975, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã sớm đổi mới mạnh mẽ trong ý thức nghệ thuật
và thể hiện trực tiếp trong hàng loạt các sáng tác. Đó là sự đổi mới quan niệm
về hiện thực, đổi mới cách nhìn và khám khá về con người và sự đổi mới về bút pháp tự sự. Đối với
truyện ngắn, ông ngày càng có ý thức sâu sắc hơn về vai trò của tình huống truyện
và đã xây dựng được nhiều tình huống truyện độc đáo, có hàm
lượng thẩm mỹ cao. Một trong những biểu hiện đó là tình huống truyện trong truyện
ngắn Bến quê (Ngữ văn 9), sáng tác năm 1985, in trong tập truyện cùng tên, đây
là một tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự ở
giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu.
Trong truyện
ngắn, tình huống truyện có vai trò hết sức quan trọng việc thể hiện nhân vật và chủ đề
tác phẩm. “Tình huống truyện là những sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà
văn sáng tạo trong tác phẩm, chứa đựng một tương quan bất thường giữa người với
người hoặc giữa người với ngoại cảnh. Tại sự kiện đó, tính cách con người được
bộc lộ sắc nét và thông điệp của nhà văn gửi gắm được hiện hình trọn vẹn” (Dẫn
theo bài giảng: Chuyên đề truyện ngắn của TS Chu Văn Sơn). Theo tính chất của
tình huống truyện, người ta phân tình huống truyện thành các kiểu: tình huống
hành động, tình huống tâm trạng, tình huống nhận thức.
Tình huống
truyện trong truyện ngắn Bến quê được xác định là tình huống nhận thức và có thể
gọi đó là “SỰ BỪNG NGỘ CỦA MỘT CON NGƯỜI”.
Truyện kể về
nhân vật Nhĩ với một hoàn cảnh rất đáng thương: Trước đây, Nhĩ là người đã đi rất
nhiều nơi trên thế giới nhưng trong những ngày cuối đời, anh bị buộc chặt vào giường bệnh, bị liệt nửa
người, mọi sinh hoạt của anh đều dựa vào người thân. Nhĩ khao khát đến cái bãi
bồi bên kia sông nhưng không thể đến được. Anh nhờ con trai là Tuấn thay anh đến
đấy nhưng Tuấn đâu hiểu được khao khát ấy của cha. Trên đường đi, Tuấn lại mải
mê vào ván cờ phá thế như cách người ta vướng phải những cám dỗ trong cuộc sống
và lỡ mất chuyến đò sang bên
kia sông. Trong tuyệt vọng, Nhĩ
thu hết mọi sức tàn, bíu chặt mười đầu ngón tay vào cái bậu cửa sổ, đưa bàn tay vẫy vẫy
về phía cái bãi bồi bên kia sông ấy như một nỗ lực
cuối cùng trong cuộc đời.
Tình huống
truyện đã tạo ra hai nghịch lý: Nghịch lý thứ nhất là “Suốt cuộc đời Nhĩ đã
từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, vậy mà gần một năm nay, căn
bệnh quái ác đã cột chặt lấy anh vào giường bệnh. Liệt toàn thân, tự nhích người di chuyển vài chục phân
trên tấm nệm khó bằng bay nửa vòng trái đất, sinh
hoạt chủ yếu nhờ vào sự giúp đỡ của Liên”. Nghịch lý thứ hai đó là Nhĩ đã từng đi khắp năm châu mà chưa từng một lần đặt chân
lên cái bãi bồi bên kia sông, ngay trước mắt mình. Như một định mệnh, miền đất ấy
cuộc đời anh mãi mãi không thể đặt chân lên được, ngay cả khi Nhĩ nhờ con trai
đến đấy thay anh.
Từ tình huống
trên, tác giả đã đưa đến một thông điệp: Trong cuộc đời có những điều giản dị,
bình thường nhưng không phải lúc nào cũng sớm nhận ra mà phải qua bao trải nghiệm, có khi đến
cuối đời mới nhận ra được. Con người ta bước trên con đường đời khó tránh khỏi
những vòng vèo, chùng chình mà cuộc sống giăng ra trước lối. Chỉ có những
vẻ đẹp gần gũi, thiêng liêng là nơi có thể cho ta chỗ dựa, nâng bước cho ta
trên cuộc đời. Với Nhĩ, đó là cái bãi bồi bên kia sông, là người vợ
tần tảo, giàu đức hy sinh mà đến lúc này anh mới thấm thía.
Qua tình huống
truyện, tác giả đã thể hiện sinh động diễn biến tâm trạng của nhân vật Nhĩ. Những
ngày cuối đời, Nhĩ cảm thấy thiên nhiên như đẹp hơn với cái nhìn gần gũi và
thân thiết hơn những gì anh đã biết. Sáng đầu thu hiện lên như một bức tranh trên cái
nền của cảnh sắc. Đó là những bông hoa bằng lăng nở muộn, sắc đang phai giữa
không gian vời vợi của bầu trời. Nắng soi dòng sông uốn lượn mềm mại,
đỏ nhàn nhạt màu nước phù sa soi lên cái chiều rộng, chiều sâu của cái bãi bồi
ngay trước cửa sổ. Anh thấy nó đẹp đến kỳ lạ bởi vì đó là lần đầu tiên anh
say sưa chiêm ngưỡng nó, say sưa khám phá cái ẩn mình bên trong lớp vỏ hiền
lành, gần gũi, đã quen thuộc bấy lâu nay. Anh cay đắng nhận ra cảnh vật kia mãi
mãi là miền đất xa lắc, đến với nó chỉ là một giấc mơ xa rời tầm tay.
Hình ảnh người
vợ hiện lên trong anh nỗi buồn xen lẫn những mặc cảm xót xa, tê tái: “Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên
đang mặc tấm áo vá” và đôi tay gầy gò. Anh thấu hiểu sự
vất vả, hy sinh thầm lặng của người vợ hiền thảo: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm…mà
em vẫn nính thinh”. Nhĩ xúc động, thương cảm với cuộc đời tần tảo, lặng lẽ của vợ. Đó là
niềm xúc động khi anh tìm được cho mình nơi nương tựa là gia đình. Anh đã ân hận,
xót xa vì là trụ cột của gia đình mà chưa bao giờ làm cho gia đình ấy được sung
sướng.
Dường như bằng
trực giác, Nhĩ đã nhận ra thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa. Cảm
giác về cái chết treo lơ lửng dường như đã thôi thúc cái khát khao trong anh
cháy bỏng hơn, trước khi những đốm tàn của sự sống tắt lịm hẳn. Đó là khát khao được đặt
chân lên cái bãi bồi bên kia sông, một miền đất trù phú và mơ ước. Cái
bờ bên kia không dừng lại ở ý nghĩa hiện thực nữa, nó mang những giá trị biểu
tượng vô cùng thiêng liêng. Bờ đất ấy cũng là phần cuộc đời chưa đi tới, phần cuộc đời
mà mỗi người đều muốn khám phá dù biết rằng nó là không giới hạn. Bến bờ ấy
cũng có thể là bến đậu quê hương, bến đậu cuộc đời, bến đậu của những giá trị
tinh thần gần gũi mà ý nghĩa. Hành động cuối cùng của Nhĩ “giơ một
cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ, khoát khoát - y như đang khẩn thiết ra hiệu cho
một người nào đó” như một cố gắng cuối cùng để gửi đến mọi người lời nhắn nhủ thức tỉnh,
thoát khỏi sự vòng vèo, chùng chình, chung tay vào để hướng tới những
giá trị đích thực mà gần gũi trong cuộc sống. Đó cũng là thông điệp đầy tính
nhân văn của Nguyễn Minh Châu qua tình huống truyện và nhân vật ở tác phẩm này.
Dạy - học
tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn nói chung cũng như truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu cần chú
ý phân tích tình huống truyện, từ đó mà tìm hiểu tâm trạng
và cốt cách của nhân vật thể hiện qua tình huống. Có như thế chúng ta mới
thấy rõ được ý đồ nghệ thuật và thông điệp của nhà văn cũng như những
giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Trên cơ sở đó mà giáo dục cho học sinh biết trân
quý, mến yêu quê hương đất nước, những giá trị gần gũi, bình dị mà rất chân thật
trong cuộc sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI