Tôi có một người anh họ xa. Anh mồ côi cả
cha lẫn mẹ từ khi còn nhỏ. Bà tôi thương anh
lắm nên đưa anh về nuôi anh ăn học. Anh học rất chăm chỉ. Những lần đi họp phụ
huynh cho anh, lần nào bà cũng được mời ngồi ở ghế đầu vì anh là học sinh giỏi nhất
nhì trong khối. Vậy mà về nhà anh còn giúp bà bao nhiêu là việc. Bà tôi làm nghề
hàng ăn. Bún mọc hàng bà tôi nổi tiếng ở chợ Xanh. Ai về chợ Xanh mà chưa được thưởng
thức bát bún mọc ở hàng bà tôi thì coi như chưa đến chợ. Khách hàng của bà thường kháo nhau thế. Tất cả mọi việc, từ nấu nướng
đến làm bún, bán hàng đều do một tay bà làm cả. Vì vậy cho nên các bác, các chú và cả mẹ
tôi nữa không ai nối được cái nghề của bà nên mỗi người lập nghiệp ở một nơi. Thời chiến, các bác, các chú của tôi đều đi bộ đội. Bác Cả
hy sinh ở Cổ thành Quảng Trị, còn chú Ba, chú Tư thì sau giải phóng miền Nam ở
lại lập nghiệp tại nơi đóng quân. Mẹ tôi lấy chồng ngay làng bên cạnh.
Thế là bà lại ở nhà một mình với nghề bún mọc, hàng ngày bán
hàng tại túp lều nằm khiêm tốn nơi góc
chợ. Anh họ tôi cứ lầm lũi bên bà như cái bóng. Anh ít nói, chỉ im lặng nghe.
Thường khi bà nói chuyện, thích thú lắm anh cũng chỉ tủm tỉm cười, thành ra cứ
như bà nói chuyện một mình, cả những lúc hai bà cháu làm hàng cùng nhau cũng vậy.
Bà vừa làm vừa kể về những nỗi hoài nhớ của người già. Chỉ khi nào anh ngồi vào bàn học là bà im lặng suy tư như để tích luỹ vốn chuyện
rồi tí nữa lại kể. Từ khi đã biết suy nghĩ, không bao giờ anh đi ngủ sớm hơn bà
và dậy
muộn
hơn bà. Khi đã lớn hơn một chút, chủ nhật nào mẹ tôi cũng cho tôi dẫn em sang chơi với bà. Những hôm ấy thực sự là ngày hội của chúng tôi. Ai
cũng trổ hết tài của mình ra để góp vui. Bà tôi chứng tỏ tài của mình với những
món ăn đặc
biệt
và bát bún mọc đầy tú hụ, khiến chúng tôi ăn rồi đến mãi sau này vẫn không thể nào quên
được. Anh họ tôi đựơc dịp trổ tài khéo tay của mình. Anh làm nhiều thứ đồ chơi
cho chúng tôi mà bọn con gái không thể nghĩ ra. Khi về nhà, trong túi chị em tôi bao giờ
cũng có những thứ để chơi được hết tuần. Tôi thích nhất cỗ xe song mã chở nàng
công chúa áo trắng về cung. Cỗ xe ấy làm bằng vỏ bao diêm, bốn bánh
làm bằng bốn chiếc cúc áo nhựa đã cũ. Hai con ngựa là hai chú bọ xít nhãn,
chúng rất khoẻ được đính chặt vào hai
thanh đóm làm bánh trượt. Mỗi khi chúng xoè cánh
là cỗ xe lại phi nước kiệu quanh mặt bàn. Chơi được một ngày, chẳng may em tôi
vô ý dẫm chết hai “con ngựa”. Tôi thương tiếc chúng đến phát khóc lên được và bỏ
cả bữa ăn trưa. Em tôi chỉ tặc lưỡi, xuýt xoa:
- Cũng tiếc thật đấy! Nhưng thôi, đến chủ nhật sang bà,
em lại bắt anh họ làm đền cỗ xe khác!
Thế rồi đến chủ nhật, em tôi quên biến đi và nhảy tâng
tâng lên đòi anh làm cho đồ chơi khác. Còn tôi, tôi thèm có được cỗ xe song mã.
Thậm chí tôi đem cả cỗ xe sang chỉ mong anh kiếm cho hai con ngựa khác mà tôi
ái ngại không dám nói. Tôi thấy anh lúc nào cũng bận. Hết những việc phụ giúp
bà, anh lại đổ gạo đã ngâm vào cối để xay bột. Cái
cối xay bột của bà bằng đá, anh cứ phải lệch cả người đi mới
quay nổi. Những lúc anh ngồi xay bột, tôi thường ngồi chung tay xay với anh. Em
tôi chỉ ngồi nghênh nghênh cái mặt, nhướng cao đôi lông mày đòi anh làm cho hết thứ này
đến thứ khác. Tôi ngăn thế nào cũng không được và dù bận đến mấy anh cũng có đủ
các thứ theo yêu cầu của nó. Đôi lần, anh hỏi tôi:
- Còn em, em cần thứ gì nào?
Nhìn mồ hôi ướt đẫm lưng áo anh, tôi đáp:
- Em có rồi! Em không thích thứ gì nữa.
Thực lòng, tôi vẫn thèm có cỗ xe song mã
nhưng tôi không nỡ bắt tội anh.
Tôi không bắt anh làm hộ việc gì, dần dần
anh cũng ít khi hỏi tôi thích gì để chiều chuộng mặc
dù anh vẫn rất mực quý mến tôi. Đôi khi anh còn tâm sự những cảm nghĩ của mình về một điều gì đó. Còn em tôi, nó vẫn đỏng đảnh như trước, chuyện
chẳng có gì cũng hờn dỗi rồi lại cười ngay được. Nó vẫn bắt anh phải chiều
theo ý muốn của nó. Tôi bảo anh: “Thôi, cứ kệ nó”. Vì tôi biết nhiều thứ nó đòi anh làm cho nhưng
khi về đến nhà nó lại ném vào xó và quên ngay. Tôi nhặt lấy chúng, cẩn thận cất vào ngăn tủ của mình. Tôi thấy thương anh trước sự
vô tâm của em gái.
Chúng tôi mải chơi, mải học, mải lo nghĩ vẩn
vơ đến nỗi cả ba trở thành người lớn lúc nào
không biết. Tôi mười tám, em tôi mười sáu còn anh hai mươi hai. Em tôi học lớp mười. Nó vẫn nhõng nhẽo với anh
và anh hết sức chiều nó mặc dù anh đang bận ôn thi vào đại học. Tôi cũng
ôn thi đại học. Biết anh học giỏi nhất, nhì trong trường nhưng tôi không muốn ỷ nại vào
anh. Chỉ khi nào thật bí, tôi mới cần anh giúp. Thực ra,
tôi học cũng không đến nỗi nào. Đa số những bài trong đề cương ôn thi đại học
tôi đều làm được. Tôi mơ ước trở thành cô giáo. Anh muốn trở thành kỹ sư canh
nông. Em tôi ngang ngạnh tuyên bố:
- Em sẽ vào Bách khoa để trở thành kỹ sư chế tạo máy. Rồi
em sẽ làm ra những cỗ máy
thật gửi về cho chàng “kỹ sư canh nông”
của em. Máy thật chứ không phải các loại đồ chơi anh vẫn làm cho em đâu nhé!
Tôi nhăn mặt trách nó: “ Quá thể!”. Anh chỉ cười thật hiền.
Hai chúng tôi cùng vào trường đại học một
lượt. Em gái tôi muốn thực hiện được ước mơ
của mình thì còn phải chờ ba năm nữa. Hôm anh lên trường, bà tôi chuẩn bị cho
anh khá đầy đủ các thứ đồ dùng. Tôi lên trường muộn hơn. Tôi kín đáo san sẻ cho
anh một ít dồ dùng của mình, trong đó có cả một quyển sổ và một chiếc khăn mùi xoa khá
đẹp do tôi làm rất công phu. Tất cả các thứ sách vở, đồ dùng của anh bà tôi bỏ
hết vào chiếc ba lô con cóc, kỷ vật của bác tôi để lại. Có đôi chỗ bị rách bà
đã vá lại cẩn thận. Thành ra, anh lên trường đại học cứ y như chú, bác tôi ra trận thủa trước. Chờ mãi chẳng thấy em tôi đến. Hôm trước nó
đã hứa cùng đưa tiễn anh ra ga tàu cách nhà chừng dăm, sáu cây số. Mãi
đến lúc tàu kéo
còi sắp chuyển bánh, nó mới hớt hơ, hớt hải lao đến như một cơn gió lốc. Từ trên tàu, anh nhoài hẳn người ra cửa sổ vẫy nó. Em tôi lao đến. Nó gọi
anh, nói với anh những lời tạm biệt đẫm nước mắt. Anh gật đầu hứa hẹn với nó.
Tàu từ từ lăn bánh, em tôi hái vội nhánh cúc dã thảo mọc bên đường ray chạy theo
dắt vào
ngực
áo anh, Tàu chạy nhanh dần. Em tôi bần thần nhìn theo và khóc. Anh vẫn nhoài ra ngoài
cửa sổ con tàu, cầm nhánh cúc dại vẫy vẫy. Tôi đứng khóc lặng lẽ, nước mắt chảy dài
trên má. Tôi nhớ anh và thèm được bộc lộ tình cảm mãnh liệt của mình như
em gái mà không dám. Con tàu đã khuất hẳn, sân ga vắng bóng người chị em tôi mới
lững thững ra về. Ra khỏi cổng nhà ga, em tôi tươi tỉnh lại. Nó liến thoắng:
- May quá. Em cứ sợ không đến kịp!
Tôi trách:
- Em đi đâu vậy
Nó cười:
- À, em đến dự sinh nhật một cậu bạn học trên em một lớp.
Tôi khẽ bĩu môi:
- Thế đấy!
Nó níu tay tôi làm lành:
- Mấy hôm nữa chị cũng đi rồi, chỉ còn mình em ở nhà
thôi. Nhớ viết thư về cho em đấy!
Mà khi nào được nghỉ chị nhớ rủ anh họ cùng về nhớ!
Tiếng “nhớ” của nó chùng xuống như cánh
võng làm tôi hết giận. Nó là như thế!
Trời chiều đã muộn. Hai chị em tôi rủ
nhau về theo lối tắt qua cánh bãi ven đê. Lối này từ khi làng tôi mở con đường
mới ít có ai qua. Cây trinh nữ bò lan ra cả lối đi. Bước chân của chúng tôi làm
cho muôn ngàn mắt lá khẽ khàng nhắm lại. Mọc lẫn với cây trinh nữ là những khóm
cúc dã thảo nở những bông nhỏ màu trắng. Tôi cúi xuống hái một nhánh và không ngờ loài hoa này lại ngây
thơ, hồn nhiên và có sức quyến rũ đến như vậy.
Thời sinh viên sôi động, đầy ắp những dự tính và ước mơ của
chúng tôi trôi đi khá nhanh
chóng. Sự giao lưu nơi giảng đường và chất thơ mộng của Hà Nội càng làm cho tình cảm giữa ba chúng tôi thêm
gắn bó. Và than ôi! Mũi tên vàng của thần Erốt nghịch ngợm đã làm trọng thương cả
ba chúng tôi. Sau hai năm, khi tiễn chúng tôi lên trường
đại học, em tôi không thi vào Bách khoa để trở thành cô kỹ sư chế tạo máy mà được chọn thẳng vào trường Đại học Ngoại
ngữ, khoa tiếng Anh. Hai năm đầu, chủ nhật nào anh họ cũng đến với tôi. Với số
tiền ít ỏi của sinh viên chắt chiu được, bao giờ tôi cũng để dành làm thêm món
ăn tươi vào ngày ấy. Rồi anh đạp xe chở tôi đi xem, đi khiêu vũ ở câu lạc bộ
sinh viên hay đạp xe lòng vòng khắp phố phường Hà Nội. Tôi thấy mình thật hạnh
phúc. Ngồi sau xe đạp, tôi rất muốn vòng tay ôm eo và ngả đầu tựa vào
lưng anh. Rất muốn mà không dám.
Khi em tôi lên học, thời gian chúng tôi
dành cho nó nhiều hơn. Em thích đến câu lạc bộ.
Nó học nhảy rất nhanh và bao giờ cũng giành bằng được anh nhảy với nó. Nếu
không có lòng vị tha của người chị thì tôi sẽ thấy mình quá vô duyên, thừa thãi.
Một lần trường nó tổ chức dạ hội có cả
khách nước ngoài tham dự. Mỗi sinh viên được mời
thêm một người bạn. Tất nhiên là nó tìm anh. Biết như thế mà tôi ở nhà leo lên
giường tầng trằn trọc suốt đêm không sao chợp mắt. Một nỗi buồn không thành tên
thấm tận đến chân tơ, kẽ tóc. Tinh mơ hôm sau nó đã đến gõ cửa phòng tập thể nữ
khi bọn tôi còn lười biếng chưa ai ra khỏi giường. Nó leo lên giường tôi, rúc vào màn và ôm tôi thật chặt, chặt đến nỗi tôi phải đẩy
nó ra. Nó nằm thẳng đuỗn như khúc gỗ, hai tay khoanh trước ngực, mắt đăm đắm
nhìn lên đình
màn. Tôi hỏi nó có chuyện gì xảy ra vậy? Nó như không nghe thấy. Mãi sau nó thì thầm mới hỏi
lại:
- Anh họ với mình, họ thế nào vậy?
- Họ khá xa. Hỏi làm gì?
Nó im lặng. Tôi nghe rõ tiếng con tim nó đập
uỳnh uỵch. Một lúc nó hỏi lại:
- Mấy đời?
Tôi giật mình:
- Cũng xa, xa lắm! Hình như bốn năm đời về
đằng ngoại. Bà bảo thế!
Nó im lặng nằm nghĩ ngợi. Còn tôi thì chờ đợi.
- …Chúng em yêu nhau… Hôm qua trên sàn nhảy
anh ấy hôn em… Anh ấy nói yêu em…
Tôi thảng thốt:
- Ai cơ?
Nó thở dài:
- Anh họ.
- Thế… em thì sao?
- Em yêu anh ấy! Được không chị?
Đến lượt tôi nằm vật ra. Chỉ còn thiếu nước chân tay co
quắp, mắt trợn ngược nữa thôi.
Em tôi nhổm dậy nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Chị cũng yêu anh ấy? Yêu lâu chưa?
Tôi thở dài chua xót thú nhận:
- Nhưng anh ấy chưa nói yêu chị bao giờ!
Rồi hai chúng tôi ra trường. Anh họ về quê nhận công tác ở phòng Nông nghiệp huyện. Còn tôi
xin vào dạy học ở tận Tây Nguyên. Trước khi đi nhận công tác, tôi về nhà vài ngày. Em gái tôi bận thi không về. Mẹ không hỏi gì nhiều
về việc tôi xin việc xa
thế. Bà chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt ái ngại. Chiều xuống tôi lững thững trên con
đường tắt qua cánh đồng. Những khóm cúc dã thảo nở hoa trắng hai bên đường. Hồi còn đi học,
ba chúng tôi thường đi lối này. Bao giờ em gái tôi cũng tranh đi giữa, anh họ
đi trước còn tôi đi sau cùng. Chiều về em tôi tung tẩy hái những cành hoa dã thảo
ôm đầy vòng tay. Ôi, những bông dã thảo! Tôi nhớ hồi còn ở trên trường,
có lần tôi bắt gặp anh lặng lẽ gục đầu trên trang sổ có nhánh dã thảo được ép
khô cẩn thận. Thì ra anh đã yêu mà tôi thì cứ âm thầm hy vọng và chờ đợi. Mấy
buổi chiều tôi cứ ngồi lì ở đầu con đường đó, giữa những khóm cúc dã thảo cho đến
khi nhánh lá trinh nữ ướt đẫm sương đêm đã khép lại trong giấc ngủ vô tư
của loài cây hoang dã. Một buổi chiều như thế, bỗng có bàn tay khẽ đặt lên vai tôi. Tôi đứng phắt dậy run rẩy trong vòng tay anh họ.
Tôi gục đầu vào ngực anh, lặng lẽ khóc. Nhưng chỉ một thoáng thôi,
tôi trấn tĩnh lại, vùng ra khỏi tay anh, chạy
thẳng một mạch về nhà. Tôi không sang nhà để chào bà trước khi đi nhận công tác
như đã định.
Hai năm sau, tôi nhân được thư của mẹ khẩn thiết gọi tôi
về dự đám cưới của em gái và anh họ. Tôi vừa đọc vừa khóc. Thế là chấm dứt mọi
hy vọng. Với tôi, mọi cánh cửa dẫn đến tình yêu đều đóng chặt. Tôi ở nhà không
quá hai hôm. Khi ra ga, tôi yêu cầu không đưa tiễn. Đêm ngủ cạnh mẹ, tôi chợt
nghe mẹ nuốt tiếng thở dài.
Một năm sau. Chỉ một năm sau, nhận được thư của mẹ tôi
không biết nên cười hay nên
khóc. Em tôi đã ly dị. Chỉ sau một tháng ra toà nó lấy một chuyên gia người Hàn
quốc mà nó làm phiên dịch cho đoàn ấy. Nó để lại cho anh họ tôi một ngôi nhà
khá đẹp mới xây ở phố huyện.
Sau hai năm hay hơn gì đó, bà tôi mất. Tôi về quê chịu
tang bà. Gặp anh họ. Anh già đi quá nhanh.
Tôi tránh đối diện với anh. Chắc anh biết thế. Trong đám
tang bà, tôi khóc như mưa, như
gió, khóc cho cả phần em tôi vì nó đang theo chồng công cán ở Đài Loan không về được. Tôi khóc
thương bà, khóc thương anh và khóc cho thân phận mình. Tôi chưa bao giờ được khóc thoả thuê đến vậy. Đêm về, tôi thấy nhẹ
bớt những nỗi niềm bao năm chứa chất.
Cách đấy lâu, thật lâu tôi không về quê, Tết cũng không về,
cứ như vùng đất nơi tôi đang
ở đã sinh ra tôi vậy. Thư mẹ gửi, tôi đọc nhưng trả lời thì không. Càng gần đây, tôi càng nhận được
thư mẹ nhiều hơn. Mẹ kể về những người trong nhà, kể về những người bạn của tôi
ở làng và kể về anh họ. Mẹ kể thật nhiều. Cứ như vô tình mà kể.
Anh họ tôi vẫn sống một mình trong căn nhà trên phố huyện và công tác tại
phòng Nông nghiệp. Chỉ có điều anh tiều tuỵ, khổ sở vì thiếu tình yêu và bệnh
tật. Tuổi già đến gõ cửa nhà anh quá sớm. Tóc anh đã bạc quá nửa đầu.
Một buổi chiều cuối đông. Gió như ngựa hoang tung vó cuốn
bụi phủ đỏ những khóm dã quỳ ven đường.
Thư mẹ lại đến với tôi. Ngồi bên bếp lửa, tôi run run bóc thư ra
đọc. Đọc xong, tôi cảm thấy hụt hẫng vì cả trang giấy học trò mẹ viết đầy những chữ mà chẳng có
dòng nào nhắc đến anh họ. Lại một lần nữa, tôi thấy buốt nhói tận tâm can. Đã
có chuyện gì xảy ra với anh vậy? Làm sao mà anh lại không còn là sự quan
tâm của mẹ tôi? Hay là… Tôi thật không dám nghĩ tiếp.
Chiều chiều, tôi leo lên tận đỉnh núi cao nhất nhìn về
xuôi. Nước mắt cứ thi nhau lăn tròn
trên má. Tôi thảng thốt khi nhận thấy trên nền trời xanh màu ngọc bích có một cỗ xe
song mã chở nàng công chúa Áo Trắng. Cỗ xe đang phi nước kiệu về cung điện phía trời
xa. Nơi ấy có anh họ tôi đang đứng đợi. Nét mặt nàng đầy vẻ mãn nguyện của kẻ
chiến thắng. Chiếc xe đang bay trong một trời đầy những bông cúc dã thảo. Tôi vội
vàng cất tiếng gọi anh. Tôi gọi lạc cả giọng mà anh vẫn không nghe thấy. Tôi vừa
khóc, vừa gọi anh, vừa chạy về phía anh họ. Không. Tôi không chạy mà tôi bay.
Tôi bay trong bầu trời đầy hoa. Tôi không có cỗ xe song mã nhưng tôi phải về đến
cung điện trước nàng công chúa Áo Trắng.
Từng cơn gió hắt vào mặt tôi làm tôi nặng nề
mở mắt. Bên ngoài, sương giăng đầy lối.
Tôi thẫn thờ không biết đang mơ hay tỉnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI