Cùng với nhiều
thứ âm thanh thôn dã khác, tiếng giã gạo từng là nỗi nhớ khôn nguôi trong hồn
người xa quê, xa xứ.
Cái âm thanh thậm thịch thậm thình đều đều nhẫn nại không chỉ là nỗi nhớ
trong tâm tưởng của những người đã từng sống ở thôn quê, mà nó còn
đã thành tên gọi một xóm cư dân người Việt cổ; ấy là xóm Thậm Thình, thuộc xã
Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, nơi Đất Tổ Vua Hùng.
Tương truyền đây là nơi chuyên giã gạo để cung cấp về triều đình Hùng Vương. Từ
âm thanh đặc trưng của sự va đập cối chày mà xóm có tên gọi nôm na gần gũi
là “Thậm Thình”. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi có bài thơ rất hay về địa danh này:
Đi qua xóm núi Thậm
Thình
Bâng khuâng nhớ nước
non mình ngàn năm
Vua Hùng một sáng đi
săn
Trưa tròn bóng nắng dừng
chân chốn này
…
Trăm cô gái tựa tiên sa
Múa chày đôi với chày
ba rập rình
Đêm đêm tiếng thậm tiếng
thình
Cối chày thơm cả nghĩa
tình nước non…
Trước khic có máy xay
xát như ngày nay, trên đất nước Việt Nam đâu đâu cũng có chày cối để bóc thóc
(lúa) thành gạo. Ở miền xuôi giã gạo chỉ bằng sức người. Ở miền núi, ngoài sức
người, bà con còn lợi dụng các dòng sông suối thiết lập những cối giã gạo nhờ
sức nước làm giúp. Tuy nhiên, tiếng giã gạo nơi thôn bản làng xóm trải qua ngàn đời
vẫn là cái âm thanh không thể nào quên.
Riêng ở khu vực Tây Nguyên, tiếng giã gạo của các bà, các cô, các chị,
các em gái chỉ mới vừa vắng tiếng chừng độ vài mươi năm, khi máy xay xát được
kéo về đến tận các bon (buôn), pơ-lei (làng). Sở dĩ chỉ nói các bà, các cô…
là bởi tập quán ở Tây Nguyên phụ nữ là người lãnh phần giã gạo, nam giới tuyệt
nhiên không được đụng tới; không như miền xuôi nam giới cũng tham gia giã gạo
(nên mới có điệu hát giao duyên Hò giã gạo).
Ai có dịp ở đêm
lại các buôn làng Tây Nguyên trước đây đều khó quên tiếng giã gạo thậm thình khắp
đầu thôn cuối xóm. Thời điểm giã gạo tập trung nhất là vào buổi chiều tối và buổi
sớm mai. Sau một ngày nương rẫy, chiều về, sau khi tắm táp ở giọt nước (mó nước) đầu
làng, các bà các cô liền ra kho (xim) lúa gia đình khom người xuống
giàn đàn klông-pút (luôn đặt sẵn ở đấy) vỗ một đoạn nhạc ngắn như một thông lệ, rồi lấy
lúa vào gùi mang đến cối giã để kịp nấu cơm tối. Rồi thì tờ mờ sớm mai các bà
các cô lại phải dậy cùng với tiếng gà gáy lần nhất, lần hai để giã tiếp kịp nấu
sáng và giỡ theo lên nương rẫy bữa trưa.
Tiếng giã gạo buổi chiều tối thường lẫn vào nhiều tạp âm khác, như tiếng
chó sủa, tiếng gà giành chuồng, tiếng mõ khua lốc cốc của trâu bò, tiếng
người cười nói râm ran... nên ít gây ấn tượng. Ấn tượng nhất là tiếng giã gạo
lúc tinh mơ. Trong lúc khách còn kín người trong chăn
tránh cái rét ngọt ngào của gió núi sương rừng thì các bà các cô đã vần cối ra
“nhà chồ” (đoạn dôi ra phía trước nhà sàn, nơi đặt cầu thang lên
xuống) giã gạo. Tiếng giã gạo kéo theo tiếng gà gáy sang cứ sôi lên giữa không gian
tĩnh mịch đại ngàn. Cái âm thanh âm trầm đều đều như đưa khách vào những suy tư
miên man xa vắng...
Cách giã gạo của phụ nữ Tây
Nguyên có khác cách giã ở miền xuôi một tí. Dưới xuôi, người
đứng giã gạo với tư thế chân trước chân sau. Khi lấy sức lấy đà để nện chày xuống lòng cối đầy thóc thì chân trước là chân trụ, chân sau thả lỏng;
khi rút chày lên thì chân sau là chân trụ, chân trước thả lỏng. Khi mỏi
thì thay tư thế của hai chân; và cứ thế giã cho đến khi gạo trắng. Phụ nữ Tây
Nguyên khi giã gạo lại đứng dụm hai bàn chân khít nhau, khi nện chày xuống thì
lưng cụp theo về phía trước và mông nhô đưa ra phái
sau; khi rút chày lên thì hít hơi, thót bụng lại, ngực ưỡn ra trước
để lấy đà và lấy sức giã chày xuống. Với tư thế này, người quan sát có cảm giác
cách giã gạo của chị em phụ nữ Tây Nguyên có vẻ... “nhún nhảy, điệu đà” như một
vũ điệu, đẹp mắt hơn, “nghệ thuật” hơn, nhưng có lẽ hơi bị tốn sức hơn so với
cách giã ở miền xuôi!
Hình ảnh giã gạo
ấy được nhà thơ Hồng Chinh Hiền khi tham gi đánh Mỹ tại Mặt trận Tây Nguyên
quan sát và khắc họa:
Phơi
dưới trời dầu dãi tấm thân
Mưa
chan nước hay nắng hừng tuôn lửa
Những
lưng ong trùng triềng nghiêng ngửa
Cối gạo khuya tùm tụp tiếng chày
Bấm hai chân, vung vẫy hai tay...
Theo tập quán phải cáng
đáng một công việc thường ngày cực nhọc như thế nên có lúc những nàng “sơn nữ”
Tây Nguyên chỉ biết than thầm:
Chúng em người
con gái Xê-đăng
Khổ hơn mọi người con
gái khác
Đêm quỳ xuống còng lưng
giã bắp
Buôn ngủ say
còn lửa bập bùng
Lửa thức cùng con gái
Xê-đăng...
(Hồng Chinh Hiền)
Dẫu biết rằng “khổ hơn
mọi người con gái khác” nhưng cũng phải… “chuyên cần”, bởi dường như chuyện giã
gạo đã như là thước đo phẩm hạnh về sự đảm đang và ý tứ của người
phụ nữ nơi đây, như “ví dụ” này:
Dâu về nhà, mẹ
lẻn ra sân
Giấu một quả trứng
gà trong họng cối
Sáng tinh mơ, mẹ chồng
giục vội
- Ơ, Y Ben, giã nhanh gạo,
giã nhanh!
Vội, cũng không quên được
thói quen
Cô sờ cối, đưa
trứng gà trả mẹ!
(Hồng Chinh Hiền)
Thật là một kiểu mẹ chồng thử ý nàng dâu quá... độc đáo!
Suốt thời đánh Mỹ, khắp
núi rừng Tây Nguyên đâu đâu cũng râm ran, vang động tiếng giã gạo nuôi quân để
“bộ đội ta ăn no đánh Mỹ”. Chuyện này thì cả nước đều biết và đều nhớ qua ca
khúc “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” của nhạc sĩ Xuân Hồng:
Cắc cùm cum...
Bập bùng bên
ánh lửa
Sóc Bom Bo rộn
rã tiếng chày khua
Giã gạo ban đêm
vì ngày bận làm mùa...
Cái hình tượng
sáng màu lãng mạn cách mạng của một thời kỳ thơ ca Việt Nam ấy cũng được tác giả
Thanh Kỳ thời đánh Mỹ tại mặt trận Tây Nguyên khắc họa qua bài thơ “Tiếng chày
trên tuyến lửa”:
Nhớ đêm nào trăng in
bên núi
Đường hành quân qua suối
Kông Nông
Quần với Mỹ diệt
từng hoả điểm
Nhớ tiếng chày khoan nhặt
đêm sương
...
Gạo ra trận
mang tiếng chày ra trận
Dưới làn mưa đại bác,
bom xăng
Người con gái trên chiến
hào bão lửa
Vung tay chày như tư thế
xung phong...
Không khí và
khí thế giã gạo nuôi quân ấy cũng được thượng tướng Đặng Vũ Hiệp - nguyên Phó Chỉnh ủy Mặt
trận Tây Nguyên (B3) thời đánh Mỹ - viết lại trong hồi ký “Ký ức Tây
Nguyên” của mình: “Một lần khác, chúng tôi được anh cán bộ kinh tế H67 (huyện Sa
Thầy cũ, tỉnh Kon Tum - NV) dẫn đến chỗ đồng bào đang nộp thóc... Một cảnh tượng
thật khó quên đối với tôi: cả làng giã gạo... Mọi người vừa giã
vừa hát:
Trăng lên rồi
Đêm đẹp lắm
Lũ làng mừng
giã gạo nuôi quân
Ơi, anh giải phóng, cái
chân không mỏi
Lũ làng đây cái tay
cũng không mỏi
Anh diệt nhiều
thù, cối gạo càng trắng thơm...
Ngày nay tiếng
giã gạo đã đi vào tiềm thức. Chắc rằng tiếng nổ ầm ào của những cỗ máy xay xát không bao
giờ thay thế được vị trí âm thanh “thậm thình” đều đều nhẫn nại của cối chày
trong tâm tưởng mọi người.
Thế cho nên,
xin mượn trở lại câu thơ Nguyễn Bùi Vợi để khép niềm hồi ức:
Đêm đêm tiếng thậm tiếng
thình
Cối chày thơm cả nghĩa
tình nước non...
câu thơ cuối rất độc đáo
Trả lờiXóa