Sổ tay Thơ:
(Về bài thơ QUAN CỰU QUỐC TỬ GIÁM
của Vũ Tông Phan)
Phiên âm:
QUAN CỰU QUỐC TỬ GIÁM
Hiền quan tân xưởng Đại
Nam kỳ,
Cựu giám lâu tường bán
dĩ phi.
Ngô đạo bất duyên tang
lễ cuộc,
Thử bang thiên
quán phế hưng ky (cơ).
Bách vương ảnh hướng
hàn nha thụ,
Thiên cổ phong thanh
triện điểu bi.
Trùng ức thiếu
niên du học xứ,
Xiển Do đừng hạ phỏng
tà huy.
Dịch nghĩa:
THĂM QUỐC TỬ GIÁM CŨ
Cửa hiền tài mới được dựng
ở kinh kỳ nước Đại Nam
Lầu tường Quốc
Tử Giám cũ đã điêu tàn quá nửa.
Đạo ta không quan hệ gì
với cuộc bể dâu,
Chỉ đất nước này gắn bó
với cơ trời suy thịnh.
Bóng dáng và âm hưởng của
trăm đời đế vương,
Chỉ còn là đám
cây lạnh lẽo quạ đậu.
Phong hoá và tiếng tăm
của nghìn xưa,
giờ chỉ còn thấy
những tấm bia rạn nứt như in dấu chân chim
Nhớ lại nơi từng du học
thời niên thiếu,
(Nhưng) dưới mái giảng
đường Xiển Do chỉ còn gặp lại bóng chiều tà…
Dịch
thơ
Miếu Văn dựng ở Đại
Nam,
Quốc Tử Giám cũ điêu
tàn đã lâu.
Đạo ta ngoài cuộc bể
dâu,
Cơ trời suy thịnh nhuốm màu tang thương.
Vàng son ngàn thuở đế
vương,
Còn đây lạnh lẽo
thê lương thế này !
Nghìn xưa phong
hóa sâu dày,
Giờ trơ mấy tấm bia gầy
xác xơ.
Nhớ xưa một thuở mộng
mơ,
Mà nay Văn Miếu bơ phờ
hoàng hôn.
(VŨ
BÌNH LỤC-Phỏng dịch)
Tiến
sĩ Vũ Tông Phan (1800-1862), được người đời rất kính trọng, thường gọi là Cụ Nghè
Tự Tháp. Đó là một nhà giáo khả kính, bạn thân của Cao Bá Quát, Nguyễn Văn
Siêu…Thi đỗ tiến sỹ, làm quan dưới triều Nguyễn đến chức Đốc học Hà Nội, rồi cáo bệnh từ quan về sớm, mở trường dạy học bên hồ Gươm, đào tạo
nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò ông làm quan nhan nhản ở
kinh thành Huế. Ông cùng với Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu…nổi bật lên như những
danh sỹ Bắc Hà, làm rạng danh cho Hà Nội, cho đất nước. Cũng như Cao và Nguyễn,
Vũ Tông
Phan
sáng tác nhiều bài thơ về Hà thành. Nhìn chung, những sáng tác của các ông (và của cả
các bà như Nguyễn Thị Hinh, tức Bà Huyện Thanh Quan) ở thời điểm này, phần lớn đều lấy
cảm hứng hoài cổ, tiếc thương một kinh đô hoa lệ xưa đã trở thành hoang tích,
khi làn gió lịch sử đổi chiều. Bài thơ “Thăm Quốc Tử Giám cũ” của Vũ Tông Phan
chính là một trong những bài thơ như vậy!
Mở đầu bài thơ thất ngôn bát cú này, tác giả viết:
“Cửa
hiền tài mới được dựng ở Kinh kỳ nước Đại Nam
Lầu
tường Quốc Tử Giám cũ đã điêu tàn quá nửa”
Hai câu thơ, mà khái quát cả một thiên lịch sử đau buồn,
với bao biến cố thăng trầm, gió mưa thế cuộc. Khi mà Triều Nguyễn đã đánh bại
nhà Tây Sơn, đã bỏ Kinh thành Thăng Long, đặt đô ở Thuận Hoá, rồi cho dựng Văn Miếu ở
Kinh đô mới, lại
đặt tên nước (Quốc hiệu) là Đại Nam, thì đương nhiên, thành Thăng Long, đã mau
chóng trở thành cố đô hoang phế. Chữ “Thăng Long” (Rồng bay) cũng bị người ta thay đổi, làm cho nó méo mó đi, không thể “bay lên” được nữa. Thành Hà
Nội chẳng những bị hạ cấp về quy mô thực địa,
mà còn bị hạ cấp về mặt hành chính, chỉ còn là cái Bắc Thành trực thuộc tỉnh Hà
Nội (gồm cả huyện Lý Nhân của tỉnh Hà Nam ngày nay). Kinh đô mới của triều Nguyễn
đặt ở Thuận Hóa (Huế), Văn miếu đương nhiên sẽ là ở Huế. Quốc
Tử Giám xưa một thời tôn nghiêm, là biểu tượng văn hóa của cả nước trải qua nhiều
triều đại vẻ vang, cũng không là ngoại lệ. Nó cũng bị
bỏ rơi, cũng đã “điêu tàn quá nửa”!...
Hai câu thơ tiếp theo, tác giả nghĩ suy, luận
bàn về lẽ hưng vong của đất nước, sự thịnh suy của các
triều đại, về vật đổi sao dời thế cuộc. Vũ Tông Phan viết:
“Đạo
ta không quan hệ gì với cuộc bể dâu
Chỉ
đất nước này gắn bó với cơ trời suy thịnh”
“Đạo ta” là đạo nào, nếu không phải
là đạo Nho mà Vũ Tông Phan và nhiều nhà Nho cùng thời đang nhọc lòng, khổ công
theo đuổi, sao lại “không có quan hệ gì với cuộc bể dâu”? Tác giả chỉ đưa ra một nhận xét, về tính độc lập tương đối của
đạo Nho chăng? Bởi thực tế thì triều đại đổi thay, Kinh đô dời
chuyển, nhưng Văn Miếu vẫn còn, lại được tái sinh ở Kinh đô mới! Thế nghĩa là
“Đạo ta” không đồng nghĩa với chính trị “bể dâu”. Nó là bất biến, trong cái thường
biến của vận mệnh dân tộc, của “cơ trời suy thịnh” khác nhau mà thôi! Phải
chăng, theo tác giả, mặc dù Kinh đô đã dời chuyển đi nơi khác, nhưng ở đây, ở
chính đất Thăng Long cố đô văn vật này thì
“đạo ta” tức đạo thánh hiền vẫn không thể mất. Nó vẫn sống trong lòng người, dường như chẳng quan hệ gì với sự đổi thay thời thế, với bể dâu
cơ trời suy thịnh? Hai câu thơ, nếu xét về vị trí của luật thơ, thì
phải đảm nhiệm chức năng tả thực, nhưng tác giả
đã không tuân theo cái luật thông thường ấy, mà ông đã sử dụng vị trí này bằng hai câu thơ có nội dung bàn
luận. Bàn luận về đạo Nho và thời thế, theo đó là một chút cảm hoài, như một tiếng
thở dài được nén lại.
Nhưng trước mắt vẫn là một Quốc Tử Giám điêu tàn hoang
phế. Lòng thi nhân cồn lên bao nghĩ ngợi, tiếc thương, xót xa cho một cố
đô hàng nghìn năm tuổi, thực tế là hơn nghìn năm tuổi, từng trải hàng trăm đời đế
vương, bóng dáng và âm hưởng như còn phảng phất đâu đây. Tất cả, giờ chỉ còn là
quá vãng mờ mịt xa xôi, chỉ còn là “đám cây lạnh lẽo” cho lũ quạ làm tổ! Thật là đau
xót biết chừng nào.
Chỉ vài chi tiết chân thực, hiện thực, tác giả đã cho ta hình dung thấy mồn một quang cảnh
hoang lương tàn tạ của Quốc Tử Giám, của cố đô một thời vang bóng, lòng xiết
bao cảm hoài chua xót…Nhưng đó là một Quốc Tử Giám vật thể hiện hữu, đã đành. Lại
còn một Quốc Tử Giám phi vật thể, một Thăng Long phi vật thể, là “phong hoá”, là “tiếng
tăm” của nghìn xưa…bây giờ có còn chăng? Còn đấy, nhưng “chỉ còn thấy những tấm
bia rạn nứt như in dấu chân chim” đang chau mặt với thời gian vô cảm mà thôi!...
Kết thúc bài thơ, tác giả viết: “Trùng ức thiếu niên
du học xứ / Xiển Do đường hạ phỏng tà huy” (Nhớ lại nơi từng du học thời
niên thiếu / Nhưng dưới mái giảng đường, Xiển Do chỉ còn gặp lại bóng chiều
tà”).
Tác giả thăm lại Quốc Tử Giám, như thăm lại ngôi trường
xưa cổ kính, nơi chính ông cũng đã có những năm tháng dùi mài kinh sử ở nơi
đây, thời niên thiếu. Nhưng dâu bể thế thời đã khiến cái trường đại học đầu
tiên danh tiếng nhất, trở thành điêu tàn hoang phế. Ông ví mình cũng như Xiển,
như Do, những môn sinh đạo Khổng, chỉ gặp lại Miếu Văn này, như “gặp lại bóng
chiều tà” mà thôi…
Bài thơ thất ngôn bát cú, “biến tấu” chức năng trật tự
các câu thơ, như một kiểu Việt hoá thơ Đường, chỉ xoáy vào một điểm nhìn cận cảnh
là Quốc Tử Giám, mà ẩn chứa biết bao nỗi niềm tâm sự của một sỹ phu Bắc Hà, vốn không
ưa gì những chính sách thiển cận của triều Nguyễn. Vũ Tông Phan không làm được
việc “đội
đá vá trời” đầy khi phách lẫm liệt như Cao Bá Quát, nhưng ông biết chuyển hoá lòng yêu
nước của mình vào một hành động cụ thể, cũng rất hữu hiệu và cao quý, ấy là đào
tạo nhân tài cho tương lai, chấn hưng phong hóa theo cách của riêng mình. Và đó
chẳng phải là một việc làm tiếp sức cho việc nối dài “phong hoá” và “thanh
âm” đẹp đẽ của dân tộc hay sao!
Toàn bộ bài thơ là một thanh điệu trầm buồn, chất chứa
bao nỗi niềm sâu thẳm của một bậc đại Nho, trước bể dâu thế cuộc. May thay, nỗi
niềm xót xa của Cụ Nghè Tự Tháp Vũ
Tông phan, đã được đời sau giải toả. Văn Miếu Quốc Tử Giám, giờ đã được hồi sinh cùng thời
đại mới, như sự hồi sinh của Thăng Long – Hà Nội vậy!
VŨ BÌNH LỤC
rất tuyệt
Trả lờiXóa