Tôi nằm trong chăn, đầu trùm thêm
chiếc mũ len mà vẫn thấy hơi lạnh phả vào mặt. Phòng ngoài nghe tiếng
anh trai nói với chị dâu:
- Gọi chú nó dậy ăn sáng!
- Trời lạnh lắm, cứ để cho em nó
ngủ một chút.
Giơ tay xem đồng
hồ, đã hơn 7 giờ, vậy mà vẫn nằm trên giường, tệ thật. Tôi vội tung
chăn ngồi dậy. Một cơn gió thoảng qua làm tôi rùng mình. Cái gió
lạnh như cắt da làm tôi co rúm người lại. Lâu lắm rồi, hay nói chính
xác hơn – 33 năm trôi qua, tôi mới trở lại quê nhà để đón tết. Hồi còn
ở tuổi chăn trâu, cứ mỗi độ gió mùa đông bắc về, khi trời mới rạng,
tôi lại theo bạn bè ra các ruộng đã bừa chuẩn bị cấy lúa để bắt
cá rét. Những chú cá bị lạnh, nằm cứng đơ dưới làn nước trong veo;
bọn trẻ chúng tôi chỉ cần thò tay xuống, nhặt lên bỏ vào giỏ giống
như nhặt hòn sỏi vậy; khi mặt trời lên một lúc, nước bớt lạnh, chúng
lại vẫy vùng và không thể bắt được nữa. Những hôm rét đậm có cả
những con cá chuối – người miền Nam gọi là cá lóc (hoặc cá tràu),
nặng khoảng nửa kg cũng nằm chết cóng trên mặt bùn. Bắt cá giá thích
lắm, nhưng tay chân dầm nước cũng lạnh cóng, nhiều lúc thấy cá thò
tay xuống nước thì… tay không nghe theo ý mình nữa… Cá được bắt về
thả vào nước ấm một chốc là khỏe mạnh, bơi lội tung tăng như chưa có
gì xảy ra. Ngày ấy cá nhiều lắm, bắt cá về làm thịt sạch sẽ, đem
nướng chín, đặt trong chum muối hạt để ăn dần. Khoảng 8 giờ, mặt trời
lên cao, cả bọn trở về cỡi trâu ra đồng thả cho gặm cỏ; bọn tôi lại
chia nhau đánh trận giả, đánh đáo hay kiếm lá khô, cỏ về đốt để
nướng dam (cua đồng), cà cuống… cùng ăn.
Thoáng chốc, mái đầu nay điểm thêm
nhiều sợi trắng, nắng gió Tây Nguyên có khắc nghiệt nhưng so với mùa
đông miền Bắc thì còn dễ chịu hơn nhiều. Do điều kiện công việc và cũng
vì mẹ vào ở với em gái dưới Bình Dương nên tôi không có dịp về quê
trong mùa đông hay tết nữa; nay trở lại thì thấy… khắc nghiệt quá!
Anh chị đã chuẩn bị cơm từ lúc
nào, đang định ăn trước; tôi mở cửa bước ra rồi lại thụt đầu lại vì
cái lạnh thốc vào mặt giống như có ai mang nước đá chà lên da. Chị
tôi cười bảo: “Chú đã nhớ lại mùa đông miền Bắc chưa!” Tôi cười nhưng
răng lại khua vào nhau lộp cộp, thành ra… khó coi thì phải. Anh trai
bảo: “Lâu không về, nay nếm lại cho nhớ, không lại quên mất quê.”
Lâu ngày xa quê, nhưng làm sao có
thể quên được quê hương, quên một thời niên thiếu chui rúc dưới bờ tre
tránh bom đạn và… học. Trở về hôm nay đường làng đã đổ nhựa phẳng
lỳ thay thế cho con đường lầy lội ngập ngụa phân trâu cứ mỗi độ mưa
phùn gió bấc. Thời ấy, để tránh rét, bọn học trò chúng tôi có
sáng kiến lấy báo dán lại như chiếc bao tải rồi khoét ba lỗ để mặc
vào trong, tấm áo nâu mong manh được khoác ra ngoài cho đẹp. Ngày ấy
đã xa lắm rồi, nhưng trong mỗi con người xa quê, nó như hằn sâu mãi
mãi trong trái tim.
Buổi sáng làm tô
phở tái và ly cà phê đen nóng trước khi lên xe đến cơ quan làm việc
đã thành một thói quen như được lập trình sẵn; hôm nay về quê, buổi
sáng chị dâu xới cho chén cơm thật đầy, giục: chú ăn đi cho nóng!
Lòng chợt nhớ đến những ngày ở với bố mẹ, anh chị đi thoát ly:
người vào Nam đánh giặc, người lên Hà Giang dạy học; ở nhà chỉ còn
tôi và cô em gái út. Làng xóm không còn thanh niên và hình như lũ
thiếu niên chúng tôi được xem như “trụ cột” của làng thì phải! Bữa ăn
gia đình ngày hai bữa – khi ấy làm gì có chuyện được ăn sáng, nồi
cơm nhà ai cũng chỉ lưa thưa vài hạt cơm bám quanh củ khoai, củ sắn…,
mỗi bửa chỉ dám xới hai chén lưng lưng chứ xới đầy người sau hết
phần. Tôi đi học cấp III xa nhà, chiều thứ 7 mới về; chiều chủ nhật
lại khoác túi ra đi. Trước khi đi thế nào cô em út cũng dúi vào tay
anh mấy hào bạc lẻ đã dành dụm cả tuần: “Cho anh đi dọc đường uống
nước…”, em gái tôi ngày ấy là vậy! Có lần mẹ thấy em đưa tiền cho tôi
đã bảo: “Bây giờ thương anh như vậy, mai mốt nó học hành đỗ đạt, lấy
vợ, làm ăn khá giả có việc đến nhờ, hắn lại sai con ra chối từ đầu
ngõ”!
Cuộc sống xoay vần tôi đi công tác
xa, em tôi cũng theo nghề cha anh: dạy học. Vì cuộc mưu sinh, em lấy
chồng, sinh con đẻ cái; kinh tế có phần dư giả, tiếc rằng số trời
cho hưởng quá ngắn, đã ra đi, khi mẹ già gần 90 vẫn ngong ngóng đợi
em về. Cả nhà không ai dám nói thật về em cho mẹ biết, vì thế gần
hai tháng nay mẹ vẫn đợi…! Mẹ về Bắc rồi, nhưng lại thường nhắc đến
miền Nam, nhắc con cháu trong ấy sao lâu không ra thăm và mấy cây mai trồng
trước sân có nhiều bông không, đã nở hoa chưa!
Gió lại ùa vào qua các khe cửa,
tôi hơi nhăn mặt. Chị dâu nhắc: Gần tết rồi, trời vẫn trở chứng làm cho khi
hậu khắc nghiệt hơn thì phải, chú ráng ăn lấy sức mà chống rét! Tình
cảm của chị tôi – cô giáo về hưu, vẫn mang đậm chất của người nhà quê
đồng bằng Bắc bộ: mộc mạc, chân tình… Tóc của anh chị nay cũng đã
trắng cả rồi, gió đông bắc thổi về, không lo cho mình lại cứ mải nghĩ
cho em, nhắc em như mẹ chăm con. Nghĩ về anh chị, lòng tôi thấy ấm áp
hơn. Hình như gió ngòai kia cũng bớt lạnh thì phải.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI