TRÀ DUYÊN
Truyện ngắn
Quán trà ấy nằm ở góc phố, quán rất nhỏ mang
cái tên “Năm xưa”. Năm xưa, năm xưa, người đọc lên lại thấy phảng phất biết bao
kỷ niệm ùa về. Chủ quán là một cô gái tuổi độ hai lăm hai sáu, thường mặc một
chiếc áo dài kiểu cổ màu xanh trứng sáo, mái tóc đen dài luôn kẹp hờ sau lưng, ánh
mắt lúc nào cũng bình thản an nhiên dường như thấu triệt mọi thứ trên đời.
Khách đến quán chủ yếu là khách quen, mà khách mới đến lần
đầu cũng đều phải tìm đường quay lại. Bởi trà, bởi người, bởi hoa. Chủ quán bảo
ấy là trà duyên, mỗi một con người sinh ra trên đời nếu đã vương duyên với trà
tức là đang muốn tìm về một cõi yên tĩnh, nảy trong lòng một chút thiện tâm giữa
vòng xoáy hồng trần. Ngồi trước ấm trà, tĩnh tọa giây lát, nhìn vào những lá trà
xoay tròn rồi chìm dần xuống, người ta bỗng nhìn thấy được cả kiếp trước, đời
sau của mình. Có người hỏi chủ quán, cô chỉ cười bảo:
- Ấy là trà duyên.
1.
Trời đổ cơn mưa, anh và em tìm chỗ trú chân ở trong quán
trà nhỏ. Đôi ta đến đây mới lần đầu. Quán trà mang đậm phong vị cổ kính, dường
như rêu phong thời gian đã bám dày trên từng chiếc bàn gỗ sẫm màu, từng chiếc mành
chạm họa tiết hoa mai ngậm sương, những đóa sen trắng dường như chẳng bao giờ úa
tàn. Chao ôi, cái màu trắng thanh tân ấy khiến anh nhớ đến ngày mình gặp nhau.
Tương phùng do duyên, duyên phận trong đời như nước chảy, người đến kẻ đi, vậy
mà anh lại bị đôi mắt em thu hút.
Chủ quán đợi cho chúng ta kịp trao nhau ánh mắt mới bước
ra ôn tồn hỏi han. Anh là người không thích trà, còn em thì khác. Anh không biết
làm sao đành gọi thứ trà sen mà em yêu thích nhất. Cô gái trẻ cẩn thận đặt bộ
trà cụ xuống, để cho khách tự pha, anh hỏi vì sao, cô mỉm cười bảo:
- Để biết cách nâng niu từng mối duyên phận.
- Nhưng tôi không biết cách pha trà.
Cô gái trẻ đặt tay lên ngực mình, nụ cười trên môi càng lúc
càng dịu dàng. Trong thoáng chốc ấy anh như hiểu ra, anh không cần phải tráng ấm
chuyên trà, chỉ pha một chén mộc mạc theo đúng lòng mình mong muốn. Em ngồi đó,
chống cằm nhìn anh lóng ngóng, trà vương vãi ra bàn. Trông anh như một chú bé đang
chơi đồ hàng cùng bọn con gái thuở ấu thơ. Trà pha ra, nước xanh trong như cõi
trần vô dục, hương thơm thoảng qua giống như mùi tóc em xao xuyến.
Giữa xô bồ, ta trao cho nhau một chén trà trong, em và
anh không cần kiểu cách, dốc cạn cả tấm lòng. Anh và em đưa mắt nhìn nhau, khoảnh
khắc ấy chừng như hàng thế kỷ, liệu đôi ta có thể ngồi như vậy mãi hay không?
Ngoài kia đầy huyên náo, anh chỉ muốn trốn ở chốn này, trốn vào trong lá trà, ấm
tách, tự giữ cho mình một thoáng bình an. Anh sợ hãi những gương mặt ngoài kia,
anh sợ hãi những con người với tấm lòng bon chen không ngớt.
Dừng lại một chút thôi em. Ngày mai anh sẽ trở về, là một
nhà văn âu lo cùng cơm áo gạo tiền, em sẽ trở về là một cô gái lãng mạn đa sầu.
Hai thứ đó bổ trợ cho nhau, và chờ khi chúng ta về chung một lối. Liệu trăm năm
còn có đủ?
Anh gõ nhẹ mặt bàn, chén trà rung khẽ, từng xoáy nước hút
hồn anh, anh và em cùng nhìn vào trong chén. Thấy hiện lên cảnh non sông tráng
lệ. Trời đang về đêm, trăng sáng thấu tỏ, giữa nhà tranh vườn quỳnh có một văn
sĩ đang ngồi trước bàn viết. Chàng ngắm nhìn đóa quỳnh trông trăng say đắm, chốc
chốc lại họa lên trang giấy những giòng chữ tài hoa. Giữa ánh trăng mờ ảo say lòng,
bên kia sông đang chìm trong ánh sáng điện đường, ánh sáng giả tạo của những kẻ
ham vinh hoa phú quý:
Đêm buông xuống, vầng trăng trong trẻo hào phóng ban
cho nhân gian muôn sắc ngọc, Hà Nội đã lui về sau một ngày hối hả nhuốm mùi thuốc
súng và dây thép hòng nghỉ ngơi dưỡng sức. Để rồi bước ra trong vẻ ngoài bảnh
bao với những bộ trang phục lộng lẫy, nhón chân vào Thuỷ Tạ, Khâm Thiên, ngây
ngất trong tiếng đàn ca sênh phách cùng những phồn hoa một thời.
Những câu chuyện đó đã lùi về một thế giới khác - một thế
giới mà văn sĩ coi là truỵ lạc, bê tha. Chàng giống như một Nho sinh nhầm thời,
cả ngày vui với sách vở cổ kim, nhìn cảnh bàn tay ngoại bang cày nát non sông mà
chỉ biết nhỏ lệ thở dài. Văn sĩ sống ẩn dật, lánh khỏi con người và cả cái công
nghệ của thời thế, chỉ ham hương sắc dạ quỳnh. Chàng không ưa nên nàng cũng ghét
lây, chỉ ngẩng cao đầu kiêu hãnh trông về phía đèn hoa rực rỡ ngập mùi rượu cồn
và thuốc phiện. Văn sĩ sống thanh cao bên Quỳnh, nàng là cảm hứng và tình yêu của
những trang văn thấm đẫm hơi thở thời cuộc.
Chàng đặt cho nơi mình sống một cái tên thật kêu, thật cổ:
Quỳnh Uyển. Quỳnh Uyển mà duy có nàng thôi. Đêm nay chàng lại đọc những trang văn
mới viết cho Quỳnh nghe, nàng là độc giả đầu tiên của văn sĩ.
Bao giờ cũng vậy, Quỳnh sẽ ngồi đó ngẫm ngợi, thi thoảng
mỉm cười đàm luận đôi câu. Ngoan ngoãn và dịu dàng. Hương thơm từ suối tóc nàng
làm chàng ngây ngất. Văn sĩ lấy làm hài lòng, chàng viết rất nhiều, từ những kẻ
ăn mày cho tới các vị quan tai to mặt lớn miệng quát Xà - lù - mẹc. Thế giới này
sinh ra là để nằm gọn trong trang viết của chàng, sống vì chàng.
Văn sĩ đặt bút xuống, chấm một nét đầu tiên, chàng lại viết.
Chàng sẽ viết gì đây? Quỳnh khe khẽ cúi xuống, để cho mái tóc mềm sượt qua vai
chàng. Tứ văn bay bổng, những con chữ giăng hàng trên trang giấy, chàng đang ở
nơi nao?
- Những câu chuyện của anh luôn khiến em hoảng loạn. – Quỳnh
bảo.
- Em xem, trăng kia có mấy khi tròn. – Văn sĩ cười.
Trời tang tảng, Quỳnh lui vào đài hoa, nàng ủ rũ nói:
- Em e sợ những kết thúc không viên mãn, em sợ sự điên cuồng
trong đó.
- Cuộc đời của chúng ta chẳng phải luôn điên loạn đấy
sao. – Văn sĩ mơ màng.
Văn sĩ yêu Quỳnh nhưng nàng mong manh quá, yếu ớt quá, mấy
ngày nay tấm áo xanh của nàng đã xuống màu hẳn, vàng vọt như cát pha, khuôn ngọc
cũng nhợt nhạt đi. Chàng đau lòng nhìn Quỳnh đang gượng cười với mình rồi đứng
lên xoa nhẹ gò má trắng nhợt của nàng. Dưới ánh trăng khi tỏ khi mờ, đêm dài sắp
hết, Quỳnh bỗng buồn rầu lưu luyến. Để rồi nhành ngọc cứ rũ mãi xuống, cánh hoa
rụng hết thảy. Kiếp quỳnh hoa đêm nở ngày tàn, kiếp hoa mong manh.
Văn sĩ khóc nấc lên khi người yêu về với chúa hoa. Quỳnh
bị trời xanh giày xéo, thanh bạch một đời, nay chỉ trơ lại vài đốt tay rỉ máu,
cánh hoa trong trắng tinh khôi còn đượm hương lẫn vào bùn đất. Văn sĩ nâng xác
nàng lên, tắm rửa cho nàng dưới sự chứng kiến của Nguyệt Thần, chàng cầm lòng
không đậu, cớ sao cái đẹp cứ bị trêu ngươi?
Sông núi trải bao còn, giang sơn đã đổi chủ, Quỳnh Uyển xưa
nay vùi thây trong lòng đất dưới sự tàn phá khốc liệt của thời gian để lưu lại
cái hào hoa trăm năm trước. Sau ngày Quỳnh mất, văn sĩ cũng thành người thiên cổ.
Người tri âm đã đi còn cầm bút làm gì? Lòng tiếc hoa lùi vào dĩ vãng. Từ bờ sông
Hồng trông ra, vườn cũ chỉ còn là một cái gò nhỏ mà cỏ dại mọc tràn.
Anh ngẩng lên nhìn em, thấy đôi mắt em đã đẫm lệ. Ai từng
bảo trà khiến ta tìm được kiếp trước kiếp sau. Anh kiếm tìm chủ quán, mong giãi
bày đôi câu. Cô gái trẻ vẫn mỉm cười hiền dịu, đặt tay lên trái tim mình, đáp:
- Ấy là trà duyên.
2.
Sau cơn mưa, hôm sau nắng đã đổ lên thành phố. Bất giác lại
đem đến chút yên bình thoáng qua, hơi sương còn đọng trên những tán cây rộng, lấp
lánh như ngọc. Khách vào quán là một chàng trai trẻ, trong đôi mắt vương nét sầu
bi. Ngày ấy, anh hay đưa người thương đến đây để tìm khoảng không gian riêng tư
cho chuyện tình đẹp tưởng như vĩnh cửu. Vậy mà giờ đây chỉ riêng người lẻ bóng.
Chủ quán đưa ra một chén nước trong, bên cạnh chẳng có trà
cụ hay chỉ một lá trà duy nhất. Khách ngước mắt nhìn cô thắc mắc, chủ quán vẫn
nở nụ cười nền nã trên môi. Chén nước sôi thoáng bỗng run lên rồi trong các vòng
xoáy hiện ra cảnh người ở kiếp trước:
Sân khấu rộn tiếng cười, đậm nét phồn hoa thuở thịnh thế,
màn nhung vén lên, đèn nến vụt tắt, để lộ ra bóng tài tử giai nhân. Hóa ra họ đang
diễn một khúc "Lã Bố hý Điêu Thuyền". Người xem kịch im lặng, đắm mình
vào chuyện tình thê lương. Kỳ lạ thay, giữa lúc ấy, Điêu Thuyền chẳng màng đến
Lã Bố, chỉ đau đáu ngắm nhìn một chéo áo xanh. Mà chéo áo ấy thuộc về một thư
sinh nho nhã, năm nay chàng lên kinh dự thi, tạm thấy chốn hào hoa mà đặt chân
tới.
Ánh mắt họ chạm nhau, thoáng chốc đã được khắc ghi đến suốt
kiếp.
Nàng thẹn thùng dùng vạt áo giấu đi gương mặt. Liệu chàng
có đang nhìn ta chăng? Nếu chàng động lòng, vậy thì vì ta hay vì phấn son châu
ngọc? Nho sinh ngước mắt, tự nhủ rằng nụ cười ấy dành cho ai? Tiếng tục khách
lao xao bên tai, hay nàng đang động lòng vì ai khác? Vậy là, chàng quay lưng rời
gót.
Họ gặp nhau một lần nữa ở trước bảng vàng, nhưng vị tân
Trạng Nguyên lại lặng lẽ đi lướt khỏi giai nhân. Nhà vua đã ban hôn ước cho chàng
và công chúa, nho sĩ đã quên ánh mắt trên sân khấu hôm nào. Duyên phận được xe
trong thoáng chốc, tan thành mây khói. Điêu Thuyền thấy hụt hẫng, bỗng chốc dầm
dầm lệ sa. Cứ như thế, hai người để lỡ mất nhau…
Khách thấy trái tim đau nhói, tất thảy sự không bằng lòng
trên thế gian đều đến từ nhân quả kiếp trước. Bấy giờ chủ quán mới đặt xuống bàn
một bình trà xanh trong vắt, khách bỗng chốc tỉnh ngộ...
3.
Phố chuyển sang đêm, ánh sáng ban ngày đã bị thay thế bởi
đèn điện le lói đủ mọi màu sắc. Thủ đô là nơi nuôi dưỡng ước mơ cũng là nơi nhấn
chìm biết bao nhiêu số phận. Có người lên, kẻ xuống, người đến, kẻ đi, nhưng
cho dù tất thảy đều nhận ra điều bi kịch thì vẫn tình nguyện nhắm mắt bước vào,
chỉ vì một thoáng phồn hoa. Trăm năm cũng chỉ như cát bụi, cớ chi mà cứ mãi bon
chen?
Trăng lên, dòng ngân hà nghiêng nghiêng. Từ chín tầng trời,
dòng thác trăng đổ xuống trùm lên thành phố.
Ở đây, người ta đã thôi ngắm trăng. Có lẽ bởi ánh đèn, hoặc
bởi đã không cần tri âm nữa. Trăng chỉ tỏ khi thấy tri âm, nước mắt ngàn năm của
vầng trăng ấy có ai từng thấu hiểu?
Ngoài ban công của quán trà, văn sĩ im lặng ngắm trời
cao. Có một ngôi sao sáng tỏa trên đầu, bỗng nhiên lóe lên giống như giọt lệ của
thần linh kết đọng cả vạn thế kỷ. Tay anh hơ trên miệng chén trà, để làn hương ấm
áp ngấm dần vào thể xác và linh hồn. Trăng đang rầu rĩ, bỗng nghển cổ mà trông.
Ai từng bảo ánh trăng lạnh lẽo? Có chăng cũng chỉ lạnh với tục nhân. Văn sĩ buông
tiếng thở dài.
Chủ quán đứng bên giò địa lan đương trổ, lặng lẽ trông về
phía ban công. Nỗi đau của những kẻ sinh nhầm thời đã biến họ trở thành tri kỷ.
Văn sĩ nhìn vào từng xoáy nước ngày một dày đặc trong chén trà, giống như bão lòng
của chính bản thân. Anh thấy bóng áo dài cùng với nụ cười nền nã, đôi mắt ấy giống
như thấu triệt, soi sáng cả tâm linh bụi bặm của thế gian.
- Đời thì bạc. – Văn sĩ bảo.
- Chuyện đời có mấy khi vừa lòng người? – Chủ quán cười.
- Chúng tôi nhếch nhác lắm phải không cô? Sống trong cái
thời nhiễu nhương này, những văn nghệ sĩ có tâm thì khổ.
- Ai cũng có sứ mệnh của riêng mình, chi bằng cứ nghĩ như
vậy cho thỏa lòng.
- Đời đáng cười. Những người khắc khoải cả đời với chữ thì
cứ chịu đày đọa mãi, quả đúng là phận giời hành. Kiếp sau xin đừng làm thân phu
chữ!
Mùi trầm nhẹ tỏa, chủ quán mỉm cười bốc một nắm trà cho vào
trong chén, nước sôi dội lên, những lá trà chịu đựng rồi nở ra. Chìm nổi mấy
phen, nước trà tỏa hương ngan ngát, trong vắt như sương. Cô vuốt lại nếp áo, im
lặng. Chén trong tay văn sĩ khẽ động, run run, bên trong hiện ra ánh mặt trời xán
lạn. Dưới ánh mặt trời ấy, có một cây hoa đào đang mãn khai rực rỡ. Văn sĩ trầm
trồ, không nỡ dứt khỏi những cánh hồng sắc xuân. Ấy vậy mà, chớp mắt, giông bão
nổi lên vùi dập tất thảy. Gốc đào chỉ còn trơ lại cành lá xác xơ, hoa nát thành
cát bụi rắc rụng đầy mặt đất.
- Sự sinh và tử, được và mất cách nhau chỉ trong gang tấc,
buồn vui chuyển hóa, họa phúc không ngừng. Trong vòng xoáy này, nỗi buồn của chúng
ta là một thứ xa xỉ phẩm, ai cũng đáng thương, ai cũng bế tắc. Cớ chi cứ phải đày
đọa mình mà không thể sống ung dung tự tại, không lo sợ trước bão giông, giữ lấy
một tấm lòng trong thiên hạ, tránh khỏi những sự chướng tai gai mắt giữa buổi
nhiễu nhương?
Văn sĩ sững sờ, mầm sen hé nở, vụt ngoảnh lại nhìn chủ quán.
Cô mỉm cười nền nã, đặt tay lên trái tim...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI