Thứ Tư, 22 tháng 11, 2017

KÝ ỨC BUÔN NUI - tác giả KHÁNH HẠ - CHƯ YANG SIN SỐ 303 - THÁNG 11 NĂM 2017



Bút ký
  

Nằm sát nách thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ của Đắk Lắk chừng 20km, nhưng buôn Nui bây giờ lại thuộc về huyện Cư Jut của tỉnh Đắk Nông. Đây là buôn làng Ê Đê mà tôi gắn bó từ những ngày mới đặt chân đến Tây nguyên. Thi thoảng, nhớ một đêm rượu cần hay thèm nghe một giọng chiêng trầm hùng hoặc đơn giản là muốn nằm nghe tiếng mưa đêm rơi trên những mái nhà cũ kỹ, tôi lại về buôn Nui.
Lần này, tôi ghé về thăm để ngồi dưới tán cây cổ thụ mát rượi trong buôn, nghe già làng Ma Sim khái quát lại tình hình: Buôn Nui hôm nay có 252 hộ, với gần 1.000 nhân khẩu, chủ yếu là người dân tộc Ê Đê. Buôn Nui là buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ đầu tiên của huyện Cư Jút đạt danh hiệu Buôn văn hóa, khoảng 60% số hộ có điều kiện kinh tế khá và giàu, 40% số hộ đã mua sắm được phương tiện nghe nhìn, nhiều hộ có xe gắn máy, xe cày càng và máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp; 80% số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Buôn Nui cũng là một trong những buôn làng bảo tồn và duy trì các lễ hội, các ngành nghề truyền thống của cha ông như: lễ cúng lúa mới, cúng bến nước, rước K’pan và duy trì, truyền dạy cho con cháu nghề dệt thổ cẩm, cách đánh chiêng, cách chế tác và sử dụng nhạc cụ Đàn Brố, Ching Kram và Đàn Goong để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của người dân tộc Ê Đê… 
Tôi gặp buôn Nui, lần đầu tiên, cách đây đã hơn 20 năm.
Đó là vào mùa hè năm 1995. Thi xong môn cuối cùng của năm học thứ nhất, tôi và anh bạn cùng lớp nhà ở tận Buôn Hồ ra vẫy xe đi luôn vào Tây nguyên.
Bao nhiêu lạ lẫm diễu qua ngoài cửa kính, hết đèo cao vực sâu lại đến ruộng đồng. Tôi chập chờn mơ mộng theo những đường cua, theo những đám mây ủ trắng đầu đèo núi Mang Yang, An Khê của Gia Lai. Đến Tây nguyên rồi! – anh bạn reo như trẻ nhỏ. Bên ngoài cửa xe là Tây nguyên điệp trùng rừng núi giữa mùa mưa tháng sáu. Khó mà tả lại cái cảm giác của một người đang sống giữa chảo lửa gió Lào xứ Nghệ lại bất ngờ được đi giữa một quãng đường đầy sương trắng xuyên qua giữa đại ngàn! Quốc lộ 14 ngày đó còn ít xe qua lại nên vắng và đẹp. Những trảng rừng thông trầm mặc đứng lặng lẽ trong mưa.
Qua cầu 14, tôi xuống buôn Nui, đã dặn đi dặn lại bác tài xế giọng miền Nam vui tính thế rồi mà xe vẫn quá đi hơn cây số, là thị trấn Ea T’Linh của huyện Cư Jút bây giờ. Tôi một mình đánh bộ vào buôn Nui, nơi mà tôi chưa bao giờ đặt chân đến, nơi đó, vợ chồng chị gái tôi đang sống. Lần đầu tiên đặt chân đến một buôn làng người đồng bào Tây Nguyên bản địa, cứ thấy lạ và sợ! Nhà chị gái nằm ngay góc ngã tư chính giữa buôn Nui với một quán hàng tạp hóa nhỏ xíu nhưng đủ các loại hàng hóa từ thức ăn đến bánh kẹo và thuốc tây! Ba đứa cháu nhỏ đang học tiểu học hoặc mầm non đều nói tiếng Ê Đê như… gió! Ngày đó chưa tách tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông như bây giờ, Cư Jút là một huyện gần trung tâm, nằm sát nách thành phố Buôn Ma Thuột, buôn Nui nằm lặng lẽ bên dòng Sêrêpốk hoang dã chảy ngược đại ngàn.
Những đêm mùa hè, trẻ con không phải học bài, thanh niên người lớn sau một ngày làm việc mệt nhọc tập trung đến đông chật nhà chị gái tôi chơi. Anh rể vốn ham khách khứa, đặt một cái bàn bằng gốc cây ngoài sân cho người già ngồi uống nước. Trước thềm đặt một chiếc tivi gắn đầu chiếu phim. Ai uống nước nói chuyện cứ nói, ai xem phim cứ xem. Tôi được may mắn hòa mình vào những câu chuyện bất tận của các già làng buôn Nui từ những ngày tháng đó. Già ama Mên nói về những vạt rẫy cạnh sông Sêrêpốk dù đất tốt nhưng còn phải đợi lâu lâu nữa mới đủ nước để gieo, già ama Rănh thì kể về những ngày tháng oanh liệt khi còn đi làm du kích, một mình vác nguyên con heo rừng về cho bộ đội cải thiện trước trận đánh… “Ờ, cũng khoảng đầu mùa mưa như bữa nay đây, chúng tao gùi gạo qua sông vào Buôn Ma Thuột cho bộ đội… Ờ, cũng chừng như bây giờ, mà không, muộn hơn chút nữa, đội du kích chúng tao vào Buôn Đôn…” Bao nhiêu là chuyện, những câu chuyện ấy đã mê hoặc tôi, vẽ ra trong trí tưởng tượng còn tươi mới của anh sinh viên năm thứ nhất những hình ảnh hùng vĩ của núi rừng. Tôi ngồi nghe, cứ tưởng những ama Mên, ama Rănh chính là Đam San, Xinh Nhã từ trong trang sách bước ra, vui tính và oai hùng. Ngay từ ngày đó, tôi đã biết rằng, rồi đây, mình còn phải trở lại buôn Nui nhiều lần nữa, không chỉ vì ở đó có người thân mà vì câu chuyện của rừng đã ám ảnh tôi.
Ama Mên nói:
- Thằng sinh viên miền Bắc, mày có ưng uống rượu cần không?
Trời ơi, rượu cần thì tôi nghe nói đến rồi, nhưng uống thì chưa lần nào. Già nói: Tối mai đến nhà mình uống rượu! Ché rượu được buộc ngay cạnh bếp. Tôi bước vào thì đã có mấy người khách nữa, cũng là người trong buôn cả. Lần đầu tiên uống rượu, lại là rượu cần, tôi rón rén quỳ bên ché. Chủ nhà động viên vui vẻ: Ồ, cái thằng này, nó chưa biết uống rượu! Cũng do “chưa biết uống rượu” nên tôi chỉ phải uống hai sừng. Vị đậm, ngọt, nuốt vào rồi cứ vương vấn nơi cổ họng. Làm xong một hơi, mắt tôi hoa lên. Lửa trong bếp nhảy múa, những người ngồi quanh ché rượu cũng đang rập rờn nhảy múa. Tôi dựa lưng vào cột, nghe hơi rượu chạy khắp người, rồi ngủ lúc nào không biết.
Khi tôi tỉnh dậy thì cuộc rượu đã tàn, một vài người đã về, còn lại chủ nhà và một ông khách vẫn đang rì rầm nói chuyện với nhau. Họ nói với nhau những gì, tôi không hiểu. Thấy tôi mở mắt, ama Mên nói: “Ô cái thằng này, say nhiều quá đấy!”. Rồi lại tiếp tục câu chuyện đang dang dở. Ngoài vách nhà sàn, trời đêm đang lác đác mưa… Trên chái, một chú tắc kè hoa nào đó thỉnh thoảng lại kêu lên những tiếng rời rạc trong đêm vắng. Đâu đó từ ngoài bến nước bờ sông Sêrêpốk vọng về tiếng con chim rừng kêu tha thiết. Những chiếc gùi, quả bí khô lủng lẳng bên cạnh, lủng lẳng trên giàn bếp hình như cũng đang thầm thì những câu chuyện riêng mà chỉ có chúng biết với nhau. Cho đến mãi về sau, khi đã nếm nhiều thứ rượu khác nhau trên đời, tôi vẫn không thể nào quên đêm rượu cần đầu tiên ở buôn Nui. Ama Mên nói đùa: “Mày biết say rượu cần rồi mới biết say con gái ÊĐê được!”
Như bao nhiêu buôn làng khác những năm đầu thời kỳ đổi mới, buôn Nui trong tôi là những căn nhà sàn bằng gỗ bạc màu mưa nắng, là những gương mặt hồn hậu thân tình và rất đỗi gần gũi. Thu nhập chủ yếu từ việc trồng cây cà phê và các loại cây ngắn ngày như bắp, đậu và cả lúa nước. Người Ê Đê ở buôn Nui ít nói nhưng dễ gần và rất tình cảm. Những ngày hè, tôi và những đứa bạn mới quen lang thang ra chơi ngoài những chân ruộng vừa mới gặt, rồi quay về bến nước bên bờ sông Sêrêpốk tắm. Vào bên trong là buôn Buôr, một buôn làng còn nhiều nét cổ xưa so với buôn Nui. Đứng trên dốc cạnh con đường, nhìn thấy những mái nhà gỗ nằm chênh vênh bên dốc, nhưng tôi không dám vào. Khi cảm giác lạ lẫm không còn nữa, ban đêm, đám bạn chúng tôi rủ nhau đi bộ ra cầu 14 chơi. Tôi kể cho H’Nhung, H’Miên nghe về miền Trung xa xôi bỏng rát gió Lào quê tôi, về những ngọn núi đá vôi sừng sững, về những bãi biển ngày hè đông nghịt người, về những buổi học mụ mị hết cả đầu trên giảng đường đại học. Những người bạn mới quen, hầu hết chỉ học hết cấp hai là nghỉ về làm rẫy, không thể hình dung được là tại sao lại phải học nhiều và khó đến thế! Tuổi thơ của H’Nhung là theo amí vào rừng rồi lên rẫy, còn nhỏ thì hái hoa bắt bướm, lớn hơn một chút thì nhổ cỏ, tỉa lúa, dệt vải. H’Miên thì mơ mộng: “Có khi nào chúng mình được đi ra miền Bắc, được xuống biển chơi nhỉ!”
Những ngày hè trôi qua thật nhanh, tôi quay về trường, nơi đó, những môn học đại cương rắc rối đang đợi tôi. Trong túi xách của tôi có một bông hoa rừng màu đỏ mà tôi chưa từng biết tên của H’Nhung gửi tặng. H’Nhung nói: “Tặng anh mang về Bắc để mà biết nhớ buôn Nui…”.
***
Hơn hai mươi năm rồi, lưu lạc nhiều nơi, bước chân đã kịp in dấu hầu khắp trên các buôn làng Tây nguyên rộng lớn, từ Gia Lai, Kon Tum đến Đắk Lắk, Lâm Đồng, tôi vẫn chưa khi nào hết thương nhớ buôn Nui. Hôm nay trở lại buôn Nui, tôi lại được sống lại với những kỷ niệm còn tươi mới của mùa hè đầu tiên ấy. Đường vào buôn bây giờ đã láng nhựa thênh thang. Những căn nhà quen thuộc hai bên đường đã khoác thêm một sự đổi thay. Nhà Ma Nhúi, nhà Ma Rum đã cất thêm những căn nhà xây kiên cố bên cạnh nhà sàn cũ. Hầu như nhà nào cũng có thêm nhà xây. Tôi dạo bộ giữa buôn Nui như một người lâu ngày về lại chính quê mình để nhìn, để nghe những sự đổi thay của buôn làng trong hơn hai chục năm qua.
Giọng già làng Ma Sim vẫn sang sảng, kéo tôi quay về thực tại:
- Mình được huyện gọi là nghệ nhân tiêu biểu của người Ê Đê đấy nhá!
Hỏi thêm thì mới hay: Lâu nay, già Ma Sim vẫn thường xuyên tham gia lớp truyền dạy đánh chiêng do huyện tổ chức. Đây là một trong những hoạt động thường xuyên mà Phòng Văn hóa thông tin huyện tổ chức nhằm mục đích bảo tồn và phát huy bản sắc của đồng bào dân tộc thiểu số trong toàn huyện. Nhà của già Ma Sim cũng đồng thời là nơi mà các thành viên trong đội chiêng trẻ thường xuyên đến học cách đánh chiêng. Thấy khách lạ, những “nghệ nhân trẻ” ngượng ngịu cười chào khách rồi lại miệt mài tiếp tục công việc của mình.
Mừng cho già Ma Sim, mừng cho buôn Nui của tôi, sau mấy chục năm vẫn tha thiết tìm về cội nguồn văn hóa của dân tộc mình. Tôi đã đi nhiều nơi trên mảnh đất Tây nguyên này, không phải buôn làng nào cũng đủ “sức đề kháng” để đứng vững trước thứ văn hóa ngoại lai đang ào ạt đổ vào. Nhiều buôn làng ở Buôn Ma Thuột đã tan biến vào trong đô thị cao tầng vôi vữa. Buôn Nui, như một chàng dũng sĩ bước ra từ trong sử thi, điềm đạm, tự tin và đầy kiêu hãnh đứng vững chãi bên bờ sông Sêrêpốk ngày đêm ào ạt.
Tôi một mình đi ra bến nước. Như bao nhiêu buôn làng ÊĐê khác, bến nước là vật thể văn hóa hữu hình không thể thiếu vắng của buôn Nui. Đường xuống bến nước ven sông rợp bóng cây. Mùa này, nước sông chưa dâng cao, lũ trẻ đang tắm, những amí giặt đồ ven bờ. Tiếng nước tràn qua ghềnh đá xen lẫn tiếng nói cười vui vẻ, dưới sông, vài chiếc thuyền độc mộc lặng lẽ nép vào bờ nhìn nước sông băng băng đi ngược đại ngàn…





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI