Tràng giang in trong tập Lửa thiêng, xuất bản
lần đầu năm 1940, “không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà còn là một trong những bài
thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới” (Trần Đình Sử, “Tràng giang của Huy Cận”).
Như nhiều người
nhận định, tác phẩm mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại, in đậm dấu ấn Đường
thi, thơ ca truyền thống của dân tộc nhưng đồng thời cũng hết sức mới mẻ, độc đáo.
Thật vậy, ở phương diện cổ điển, bài thơ mang âm hưởng thơ Đường rõ nét. Dấu ấn của
thơ Đường để lại trong bài thơ này thể hiện trên hầu hết các phương diện của tác phẩm.
Ảnh hưởng của thơ Đường trong bài thơ Tràng
giang thể hiện trước hết ở việc lựa chọn đề tài của tác giả. Theo Trần Đình Sử, “đôi khi người
ta thường hiểu Tràng giang là bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương
đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ
thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình”. Có thể
nói, dù là đề tài quê
hương hay nỗi cô đơn trên chính quê nhà, bài thơ của Huy Cận đều chịu ảnh hưởng
nhất định từ truyền thống thơ Đường.
Như ta biết, quê hương là một đề tài quen thuộc, phổ
biến, quan trọng trong truyền thống thơ ca phương Đông nói chung và thơ Đường
Trung Hoa nói riêng. Ở mảng đề tài này, thơ Đường đạt được nhiều thành tựu với
những tác phẩm nổi tiếng, được độc giả ở nhiều thời đại, nhiều quốc gia yêu
thích, học tập; tiêu biểu như Lý Bạch với Tĩnh dạ tư, Đỗ Phủ với Thu hứng,
Thôi Hiệu với Hoàng Hạc lâu… Ngay cả chủ đề nỗi niềm cô đơn, lạc lõng, làm
khách trên chính quê hương cũng sớm được nói đến trong thơ Đường, tiêu biểu với bài Hồi
hương ngẫu thư (kỳ nhất) của Hạ Tri Chương:
Thiếu
tiểu ly gia, lão đại hồi
Hương âm
vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng
tương kiến bất tương thức
Tiếu
vấn khách tòng hà xứ lai
(Rời quê nhà lúc còn trẻ, già mới về/ Giọng
quê không đổi, tóc mai đã rụng/ Trẻ con thấy nhau mà không hề biết nhau/ Cười hỏi rằng khách ở
nơi nào đến).
Đề tài quê hương trong thơ Đường ảnh hưởng khá sâu sắc
đến nhiều nhà thơ Việt. Ở thời trung đại, đề tài quê hương này được nhiều tác
giả nước ta tìm cảm hứng, học
hỏi, sáng tạo lại, tiêu biểu nhất là Nguyễn Du với hàng chục bài thơ chữ Hán cảm
động viết về quê nhà như Quỳnh Hải nguyên tiêu, Thu nhật ký hứng, Xuân nhật
ngẫu hứng… Trong thời hiện đại, bên cạnh Huy Cận, một số tác giả khác cũng tiếp tục kế
thừa, phát huy truyền thống này, ví như Chế Lan Viên với bài Trở lại An Nhơn thể
hiện tâm trạng chơ vơ, xa lạ trên chính quê hương thứ hai của mình trong lần trở
lại:
Trở lại An Nhơn tuổi lớn rồi
Bạn
chơi ngày nhỏ chẳng còn ai
Nền
nhà nay dựng cơ quan mới
Chẳng
hỏi thăm quê lại hỏi người.
Là một nhà thơ yêu thiết tha quê hương đất nước, hơn nữa,
ngay khi còn nhỏ, Huy Cận “đã thuộc lòng khá nhiều ca dao, thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi
Hiệu… Sau
này, trong sáng tác của ông, người đọc ít nhiều cảm nhận được dấu ấn của Đường
thi” (Hà Bình Trị, “Linh hồn và tạo vật trong bài Tràng giang của Huy Cận”). Rõ ràng, đề tài
quê hương trong thơ Đường có ảnh hưởng nhất định đến thơ ông, trong đó có bài Tràng
giang, đặc biệt là khổ thơ cuối của tác phẩm này.
Ảnh hưởng của thơ Đường trên bình diện thể thơ biểu hiện
rõ nét ở hầu hết các tác giả Thơ Mới, trong đó có Huy Cận. Mặc dù thơ luật Đường được
xem là thể thơ
nghiêm ngặt bậc nhất trên thế giới nhưng “nó vẫn được nhiều nhà thơ của chúng
ta sử dụng ngay cả khi phong trào Thơ Mới đang phát triển rầm rộ và trên đà thắng
thế “thơ cũ”” (Lê Thị Anh, Thơ Mới với thơ Đường). Tuy không sáng tác thơ Đường
luật nhiều như Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Thái Can… nhưng âm hưởng của Đường thi ở
bình diện thể thơ vẫn vang vọng trong nhiều sáng tác của Huy Cận, trong đó
Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu.
Tác phẩm làm theo thể 7 chữ (một trong những
thể thơ phổ biến trong thơ Việt thời kì 1932-1945, và cả sau này), gồm 4 khổ với
16 dòng. Đây là thể thơ có nguồn gốc từ thơ thất ngôn trong Đường thi. Xét trên đơn vị
khổ thơ, có thể thấy, mỗi khổ trong bài Tràng giang, đặc biệt khổ 2 và khổ 3, nếu
đứng độc lập, đều có thể là một bài thất ngôn tứ tuyệt Đường luật mẫu mực. Ví như khổ
thơ thứ 3:
Bèo
giạt về đâu hàng nối hàng
Mênh
mông không một chuyến đò ngang
Không
cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng
lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Áp vào những quy định của thơ Đường luật, có thể thấy,
khổ thơ trên vừa khít theo khuôn khổ của một bài thất ngôn tứ tuyệt luật
trắc (chữ thứ 2 của câu 1 là giạt mang thanh trắc). Theo lệ bất luận: nhất tam
ngũ bất luận/ nhị tứ lục phân minh (tiếng thứ 1, 3 và 5 không bàn/ tiếng
2, 4 và 6 phải phân biệt rõ), khổ thơ tuân thủ đúng luật đối âm như sau: T-B-T (giạt-đâu-nối)/
B-T-B (mông-một-đò)/ B-T-B (cầu-chút-thân)/ T-B-T (lẽ-xanh-bãi).
Về niêm (chữ thứ 2 của 2 câu trong một liên phải
dính với nhau, tức cùng thanh trắc hoặc bằng, giữa các liên phải xen kẽ bằng trắc),
khổ thơ không vi phạm luật niêm của thơ Đường luật. Có 4 phương thức hình thành một
bài tứ tuyệt (có bốn câu, còn được hiểu là cắt thành bốn câu): Lấy 4 câu đầu, 4 câu sau,
4 câu giữa hoặc 2
câu đầu và 2 câu cuối của bài bát cú (8 câu). Khổ thơ trên theo phương thức thứ
4, do đó, dòng 1 niêm với dòng 4 và dòng 2 niêm với dòng 3. Cụ thể: T-T (giạt-lẽ) và
B-B (mông-cầu).
Về đối (đối ý), khổ thơ trên hình thành theo
phương thức thứ 4 nên không có đối. (Những bài tứ tuyệt theo phương thức 1, 2 và 3, tức cắt
4 câu đầu, cuối hoặc giữa của một bài bát cú, mới có đối ý. Kiểu 1 đối ở 2 câu
đầu, kiểu 2 là 2 câu sau, kiểu 3 đối ở cả 2 cặp câu thơ). Trong bài Tràng
giang, ở khổ thơ 1 (theo phương thức 2: lấy 4 câu cuối của một bài thất ngôn
bát cú), cặp câu thơ đầu (tương đương 2 câu luận trong bài bát cú) đối, tuy
không thật chỉnh.
Về vần, khổ thơ thứ 3 gieo vần bằng, vần chân
theo lối độc vận (chỉ có một khuôn vần “ang”), gieo ở chữ cuối của các dòng 1,
2 và 4. Cụ thể: hàng-ngang-vàng. Như vậy, khổ thơ này không bị lạc vận (tức vi phạm luật
gieo vần), thậm chí vần gieo được hoà thanh khá hiệu quả (có sự đan xen giữa vần thanh
ngang và vần
thanh huyền một cách hợp lí).
Không chỉ khổ thứ 3 mà 3 khổ còn lại của bài
Tràng giang nếu đứng độc lập cũng có thể xem là những bài thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
hoàn chỉnh. Đây là điểm rõ nhất của việc tác phẩm chịu ảnh hưởng từ thể
thơ trong Đường thi.
Thơ Đường là một đỉnh cao của thơ ca Trung Hoa nói
riêng và nhân loại nói chung, có ảnh hưởng đến nhiều nền thơ ca trong khu vực. Ở
nước ta trong thời kì 1932-1945, “hệ thống từ ngữ, hình ảnh, điển tích,
điển cố Đường thi thâm nhập một cách rộng rãi và tinh tế vào tất cả mọi thể thơ của
Thơ mới: thơ Đường luật, thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, song thất lục bát v.v…”(Lê Thị
Anh, Thơ Mới với thơ Đường). Tràng giang là một trường hợp khá tiêu biểu
cho hiện tượng này.
Bài thơ mượn lại nhiều thi liệu vốn quen thuộc, nhiều
khi trở thành công thức ước lệ trong thơ Đường, chẳng hạn như: dòng sông (Sóng
gợn tràng giang buồn điệp điệp. Liễu Tông Nguyên có câu: Cô chu thôi lạp
ông/ Độc điếu hàn giang tuyết [Trên con thuyền lẻ loi có ông già nón rách/ Một
mình ngồi câu trong tuyết trên dòng sông lạnh]), ngọn núi (Lớp lớp mây cao đùn
núi bạc. Vương Duy có câu: Dạ tĩnh xuân sơn không [Đêm tĩnh lặng, ngọn núi mùa xuân
vắng vẻ]), cánh chim (Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lý Bạch có câu: Chúng điểu
cao phi tận
[Bầy chim bay cao hết]), con thuyền (Con thuyền xuôi mái nước
song song. Lý Bạch có câu: Cô phàm viễn ảnh bích không tận [Bóng xa xa của cánh
buồm lẻ loi mất hút vào trời xanh ngắt]), buổi chiều (Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều. Đỗ Phủ
có câu: Hàn y xứ xứ thôi đao xích/ Bạch Đế thành cao cấp mộ châm [Nơi nơi may áo rét, dao
thước giục giã/ Tiếng chày buổi chiều tối dồn dập nơi thành cao Bạch Đế])…
Bên cạnh đó, một số điển cố thơ ca (điển cố thơ ca
trong thơ Việt phần lớn có nguồn gốc chủ yếu từ Kinh thi, Sở từ, Đường thi của
Trung Hoa) cũng được Huy Cận dẫn lại. Chẳng hạn, hai câu thơ cuối của bài (Lòng
quê dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà) được lấy ý từ
hai câu kết trong bài Hoàng Hạc lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu: Nhật mộ
hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Chiều tối rồi, quê nhà ở nơi đâu/
Khói sóng trên sông
khiến người sầu). Hay như hình ảnh Lớp lớp mây cao đùn núi bạc trong khổ thơ cuối
mượn lại ý của câu Tái thượng phong vân tiếp địa âm (Ngoài biên tái, gió mây sà
xuống mặt đất âm u) trong kiệt tác Thu hứng (kỳ nhất) của Thi thánh Đỗ Phủ…
Có thể nói, việc sử dụng nhiều thi liệu, điển
cố có người gốc Đường thi đã mang đến cho Tràng giang vẻ đẹp trang nhã, thi vị và đậm chất
cổ điển. Mặt khác, những sáng tạo trong nghệ thuật dụng điển, dẫn thi của Huy Cận
(không theo bút pháp ước lệ nhiều khi sáo mòn, đưa những hình ảnh thơ được mượn
trở về gần gũi với hiện thực cuộc sống và tâm trạng con người…) cho thấy ở
nhà thơ ý thức tiếp thu có chọn lọc từ truyền thống, đồng thời góp phần làm nên
vẻ đẹp hài
hoà giữa cổ điển và hiện đại cho tác phẩm.
Ngôn ngữ thơ Đường nhìn chung vừa hàm súc, kiệm ngôn,
tỉnh lược đến mức tối đa hư từ vừa mang vẻ đẹp giản dị, tự nhiên nhưng cũng thật
trang trọng, thanh nhã. Theo Nguyễn Thị Bích Hải, ở bộ phận thể hiện con người vũ trụ
là bộ phận
chủ đạo trong thơ Đường, ngôn từ “thường cổ kính, trang nhã, nhiều danh từ chung, nhiều
ngôn từ và hình ảnh ước lệ, mang tính chất tượng trưng, gợi liên tưởng…” (Nguyễn Thị
Bích Hải, Thi pháp thơ Đường). Đó là lí do mà ngôn ngữ thơ Đường được xem là mẫu
mực, có ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ đời sau.
Chịu ảnh hưởng từ ngôn ngữ thơ Đường, Tràng giang của
Huy Cận mang vẻ đẹp cổ điển, trang nhã, súc tính, hài hoà. Làm nên điều này,
nhà thơ sử dụng nhiều thủ pháp khác nhau, như: Tăng cường sử dụng từ Hán Việt
nhằm mang lại sắc thái trang trọng, cổ kính (15 từ/ 16 dòng, trong đó có những
từ mang tính điệu thẩm mĩ cao như điệp điệp, cô liêu, hoàng hôn…); hạn chế đến
mức thấp nhất việc sử dụng các hư từ (6 từ/ 112 chữ của bài thơ, trong đó, phó
từ phủ định không lặp lại đến 3 lần), sử dụng nhiều danh từ để tăng tính khái
quát cho lời thơ (39 từ/ 16 dòng), tăng cường sử dụng thanh bằng nhằm tạo nên âm
hưởng chậm rãi, lắng sâu (74/112 tiếng là thanh bằng, chiếm 60,1%)… Nhờ đó, bài
thơ như ngưng
đọng lại, góp phần khắc hoạ thành công tâm trạng bơ vơ, “sầu trăm ngả” của nhân
vật trữ tình.
Theo Lê Thị Anh, “trên bình diện thi pháp, có
thể thấy Thơ Mới tiếp thu thơ Đường trong việc tạo dựng các mối quan hệ, bút pháp chấm
phá, gợi tả theo lối “ôhoạân hiển nguyệt” và cấu trúc cú pháp tỉnh lược. Đây
chính là những nét nổi bật và khái quát nhất trong cấu tứ, bút pháp thơ Đường
mà Thơ Mới đã tiếp thu”. Trong bài thơ Tràng giang, biểu hiệu rõ nhất của sự
tiếp thu này là bút pháp tạo dựng mối quan hệ đối lập và bút pháp tỉnh lược.
Thứ nhất, bài thơ đã tạo dựng được nhiều mối
quan hệ đối lập, một điều thường xuyên bắt gặp trong thơ Đường, như: Đối lập giữa thiên nhiên
với thiên nhiên theo chiều cao (nắng xuống > < trời lên), chiều rộng
(sông dài > < trời rộng), giữa thiên nhiên với con người theo không gian
(thuyền về > < nước lại, thuyền là hình ảnh hoán dụ chỉ con người), giữa ngoại cảnh
với nội tâm (không khói hoàng hôn > < cũng nhớ nhà)… Về hình thức ngôn
ngữ, bài thơ có nhiều cặp câu đối, tiểu đối. Rõ ràng, những mối quan hệ đối lập
trong hình thức cặp câu đối, tiểu đối này có tác dụng gây ấn tượng (đặc biệt là
ấn tượng thị giác) mạnh hơn đối với người đọc, đồng thời làm cho bài thơ “đậm
đà phong vị Đường thi” (chữ dùng của Lê Thị Anh) hơn.
Thứ hai, bài thơ còn được tăng cường sử dụng bút pháp
tỉnh lược với việc triệt tiêu hư từ nhằm tạo những khoảng trống ngữ pháp cho hiện
tượng “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời), “ngôn tận ý bất tận” (lời cạn ý
không cạn) xuất hiện, đồng thời là cho lời thơ mang tính đa nghĩa, gợi mở tối đa trường
liên tưởng cho người đọc. Ví như ở câu thơ đầu Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp, vì bị tỉnh lược hư từ nên cho phép đọc giả hiểu theo nhiều cách khác
nhau, chẳng hạn: Sóng gợn [làm cho/ nên] tràng giang buồn điệp điệp, Sóng gợn
tràng giang [làm cho/ nên lòng người]buồn điệp điệp… Hay như trong câu
Không cầu gợi chút niềm thân mật, vì hư từ bị tỉnh lược, câu thơ trở thành một
cấu trúc mở với những khoảng trống ngữ nghĩa cho phép độc giả đồng sáng tạo, thoả
sức lấp đầy bằng nhiều cách hiểu khác nhau nhưng có thể chấp nhận được, như:
Không [có cây] cầu [nào để]gợi chút niềm thân mật, Không [có cây] cầu [nào nên] gợi
chút niềm thân mật hoặc Không [có cây] cầu [nào mà nó] gợi chút niềm thân mật…
Như vậy, với
việc tỉnh lược hư từ ở một số câu thơ, Huy Cận đã đem đến những cách hiểu độc đáo
mới cho độc giả tuỳ thuộc vào năng lực và thị hiếu thẩm mĩ của từng người. Với thủ pháp này,
Tràng giang gần với thi pháp thơ chữ Hán, đặc biệt là thơ Đường hơn, và dấu ấn
Đường thi trên bình diện thi pháp trong bài thơ cũng được thể hiện rõ hơn.
Tóm lại, Tràng giang xứng đáng với lời nhận
xét của Hà Bình Trị: “Là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác
của Huy Cận” (Hà Bình Trị, “Linh hồn và tạo vật trong bài Tràng giang của
Huy Cận”). Bài thơ thành công bởi không chỉ khắc hoạ được tâm trạng cô đơn, lạc lõng của
“chàng Huy Cận ngày xưa hay sầu lắm” giữa một thời đại bế tắc mà còn mang vẻ đẹp
hoà quyện giữa chất cổ điển và chất hiện đại. Nổi bật trong bài thơ là âm hưởng
của thơ Đường
trên hầu hết các phương diện của tác phẩm. Dù nằm trong mạch nguồn vô thức của
thơ ca truyền thống hay được nhà thơ cố tình tiếp thu, vận dụng thì ảnh hưởng của thơ
Đường trong Tràng giang vẫn để lại dấu ấn đậm nét, mang đến cho tác phẩm nhiều giá trị
độc đáo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI