Trở lại Tây Nguyên lần này đối với tôi như được trở về
ngôi nhà thân thuộc. Nhớ có lần bạn gọi rủ rê hãy vào Tây Nguyên mùa khô, sẽ
thấy cao nguyên đất đỏ
thắm chan cùng trời xanh mây trắng nắng vàng. Bạn sẽ được thoả thuê nhìn tận mắt và đi trong thảm vàng dã quỳ miên man.
Chẳng biết tự khi nào, dã quỳ mang trọn linh hồn
Tây Nguyên như một điều đương nhiên. Cứ càng nắng gắt khô khát, màu dã quỳ càng
vàng tươi rực rỡ. Dường như bao nhiêu mầu mỡ của đất đỏ ba-zan tình tự với hạt
mưa rừng Tây Nguyên mà dồn hết cả vào bông dã quỳ vàng tươi tắn. Hoa dã quỳ Tây Nguyên khiến cho liên tưởng
đến những con người di cư đến miền cao nguyên và đơm hoa kết trái sâu rễ bền gốc ở
nơi có hạt đất đỏ núi lửa mầu mỡ kết tinh của hai mùa mưa nắng.
Bây giờ đang
tháng Tư, là đỉnh điểm mùa khô, hoa dã quỳ cũng đã hết. Tôi không gặp dã quỳ, mà
chìm luôn trong nắng chang chang như thể không gắt gay được hơn thế nữa. Nhưng cuộc
gặp gỡ với đồng hương Tây Bắc trên vùng Tây Nguyên lại chan chứa nhiều ngọt
ngào, háo hức, mừng vui như cơn mưa sớm trước mùa mưa.
Trên hành trình mưu sinh, con người luôn tiến
hành những cuộc di cư vĩ đại qua các miền
đất để chọn cho mình nơi sinh sống tốt
nhất. Cũng nhờ những cuộc di cư mà những miền đất hoang vu được khai phá và thấm
đẫm giọt mồ hôi nước mắt của con người. Lịch sử xã hội và con người Việt Nam
cũng để lại những cuộc di cư khác nhau. Tôi dầm chân trong cái nắng gắt gay của
Tây Nguyên mùa khô để hình dung những âu lo héo hon
trong cuộc di cư của những con người đi tìm kế sinh nhai trên miền đất mới. Vì
rất nhiều lí do khác nhau mà bà con các dân tộc thiểu số Tây Bắc di cư đến Tây
Nguyên.
Có cuộc di cư do lịch sử để lại
vào năm 1954. Tôi đã đọc tài liệu ở đâu đó rằng đây là thời điểm diễn ra cuộc
di cư khổng lồ, có quy mô lớn nhất của người Việt Nam trong lịch sử dựng nước
và giữ nước. Cái ngày diễn ra cuộc di cư đó, tôi vẫn đang còn là hạt bụi trôi nổi
vô định đâu đó trong vũ trụ này. Nên bây giờ, tôi chỉ hình dung cái quy mô lớn của nó diễn ra bằng vài dòng mà lịch sử kể lại, đó
là những kiến thức hạn hẹp được học trong nhà trường. Tôi chỉ phần nào thấu hiểu thân phận của những
con người bỗng chốc phải rời bỏ quê hương mà không hẹn ngày trở lại. Cuộc chuẩn
bị để xa biệt nơi chôn rau cắt rốn, nơi có mồ mả tổ tiên ông bà đâu có phải dễ
dàng gì? Chắc chắn họ ra đi mà mang trong lòng nỗi niềm đau đáu về nơi chôn
nhau mà không biết bao giờ trở lại.
Vậy người dân di cư đã làm được gì cho mảnh đất
đã cưu mang họ? Quê hương mới có mang đến cho ngươi di cư một cuộc sống như mong muốn
không? Người dân di cư đã gặp những khó khăn gì? Thế hệ tiếp nối đã đón nhận hiện
tại và tương lai như thế nào? họ đã và đang cư xử với quá khứ ra sao? Sau hơn nửa
thế kỷ rời xa nơi chôn rau cắt rốn để xây dựng cuộc sống nơi quê mới, người dân di cư
đã có thể có cuộc sống an cư lạc nghiệp hay không? Miền cao nguyên là
nơi sinh sống chính của các dân tộc Bana, Jalai, Êđê, nay tiếp nhận đồng bào dân tộc thiểu số miền
Tây Bắc, và cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên vẫn ẩn chứa biết bao điều
cần phải khám phá.
Tôi xúc
động và có cảm giác như được trở về nhà, khi nhà văn Nguyễn Liên, người ra đón tôi ở sân bay Buôn
Ma Thuột, kể rằng sân bay Buôn Ma Thuột có tên là sân bay Hoà Bình. Khu dân cư ở
liền kề sân bay cũng mang tên Hoà Bình. Lý do rất đơn giản, đây là khu cư dân của
người Mường Hoà Bình di cư từ năm 1954. Hầu
hết, người Mường Hoà Bình đều tập trung sinh sống ở nơi này, làm nên một cộng đồng
quan trọng trong ngôi nhà chung các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Bạn sẽ ngỡ ngàng khi
gặp rừng cây sao đen hàng trăm tuổi, xanh tươi lừng lững trải dọc con đường dẫn vào
sân bay. Tôi nghĩ những cánh rừng cây sao đen được giữ gìn và chăm sóc rất tốt,
kể như từng cọng lá xanh cũng được nâng niu, đã làm nên vẻ đẹp khó quên
của thành phố cao nguyên. Phải chăng những tán cây sao đen xanh tốt kia như
nhân chứng đã chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử và cuộc sống của cộng đồng
người Mường Hoà Bình di cư đến nơi đây.
Bây giờ, sân bay Hoà Bình đã đổi tên là sân
bay Buôn Ma Thuột, và khu dân cư đổi tên là xã Hoà Thắng. Chúng tôi có cuộc gặp
ngắn ngủi với lãnh đạo xã, và đón chúng tôi là chị Nguyễn Thị Loan, Chủ tịch uỷ ban
nhân dân xã Hoà Thắng. Chị Loan vui vẻ kể
rằng chị cũng là dân di cư, từ quê Hải Dương vào đây lập nghiệp ngót 30 năm rồi. Chị
đưa ra cho chúng tôi những số liệu cơ bản về cộng đồng người Mường, gồm có 3
thôn: Thịnh Lang, Cao Phong, Mường Bi, chủ yếu là dân di cư từ 1954. Ở xã Hoà Thắng,
văn hoá truyền thống của người Mường được bảo tồn rất tốt. Những lễ nghi như lễ
Lúa Mới vào tháng 10, lễ Khai Hạ vào tháng Giêng đều được đồng bào Mường ở Hoà
Thắng tổ chức trọng thể và linh đình. Tôi nhớ, có lần vào dịp Tết Nguyên Đán 2017, chị
Linh Nga Niê Kdam, là nhạc sĩ dân tộc Êđê và là người có nhiều đam mê và nghiên cứu
rất sâu sắc về văn hoá dân gian của tỉnh Đắk Lắk có gọi điện thoại và kể về cảm
xúc thú vị và háo hức của chị khi đang dự lễ Khai Hạ của người Mường ở Hoà Thắng.
Chị Linh Nga đã làm cho tôi cứ ước
ao một lần được tham dự một trong lễ nghi truyền thống quan trọng bậc nhất, đón
một mùa trồng cấy mới của dân tộc Mường ở miền đất cao nguyên xa xôi. Thì hôm
nay đây, tôi đã mang niềm mong ước ấy vào với Buôn Mê Thuột như đất khát đợi
cơn mưa.
Chị
Loan cho biết, xã Hoà Thắng đã giữ gìn và bảo tồn rất tốt nền văn hoá truyền thống của dân tộc Mường,
đặc biệt là phong tục tập quán của người Mường Hoà Bình. Trong đó
bộ môn nghệ thuật cồng chiêng Mường được chú trọng lưu giữ và có kế hoạch
phát triển rất chu đáo. Công tác xây dựng đội nghệ thuật cồng chiêng được
Đoàn thanh niên tổ chức rất quy củ và bài bản, nghiêm túc. Các bạn trẻ được tuyển
chọn đều có tâm hồn yêu nhạc cụ truyền thống dân tộc Mường. Các buổi tập luyện
đánh cồng chiêng được những cụ già nghệ nhân tận tình hướng dẫn, chỉ
dạy cho người trẻ. Đội nghệ thuật cồng chiêng Hoà Thắng luôn có mặt tham dự hầu
hết các sự kiện văn hoá của thành phố Buôn Ma Thuột. Trong ngày Hội Văn hoá Thể
thao các dân tộc năm 2017, tiết mục biểu diễn cồng chiêng Mường của xã Hoà Thắng
được trao giải nhì. Nếu so sánh với cộng đồng người Mường sống ở huyện Buôn Đôn, những sinh hoạt văn hoá văn
nghệ truyền thống gần như bị lãng quên, hoặc không thể khôi phục thành nề nếp
như ở Hoà Thắng. Phải thừa nhận rằng việc giữ gìn nét văn hoá truyền thống ở
Hoà Thắng đã tạo nên một cộng đồng người Mường rất đoàn kết ở Tây
Nguyên, góp
phần làm phong phú thêm màu sắc cho bản đồ sắc tộc của vùng Tây Nguyên.
Trong đời sống tinh thần của người Mường, tín ngưỡng
thờ thần linh cũng là một mặt quan trọng của đời sống văn hoá truyền thống. Người
Mường ở Hoà Thắng rất có ý thức bảo tồn đời sống tâm linh của cộng đồng. Chính
quyền xã Hoà Thắng rất ủng hộ trong
công tác bảo tồn văn hoá tâm linh dân tộc Mường. Các thôn Mường đều có đình
làng dùng làm nơi tế lễ và sinh hoạt văn hoá tâm linh. Các ngôi đình Cao Phong,
đình Thịnh Lang, đình Mường Bi, đều được xây dưng và tu bổ khang trang. Đình là
biểu tượng tinh thần cho mỗi thôn Mường và do các thôn đó tự quản lí. Các ngôi
đình được dùng làm nơi tổ chức các sự kiện, các nghi lễ quan trọng của cộng đồng
Mường ở xã Hoà Thắng.
Tôi đến ngôi đình của thôn Mường Bi, thấy có
khuôn viên rất rộng rãi và được xây cất khang trang. Nhà thờ chính nối liền nhà hội họp nép
dưới bóng rợp của cây đa xoè tán che mát một vùng rộng lớn, trước mặt là cánh đồng
mênh mông. Cũng phải đợi một lát thì ông chủ tế Đinh Thế Đổng mới vội vã chạy đến
mở cổng, thắp hương trên ban thờ và cẩn trọng mời vào lễ. Ông Đổng nói vì không
được báo trước nên đã không kịp chuẩn bị
chu đáo hơn.
Ông Đinh Thế Đổng thuộc dòng dõi nhà quan lang ở Mường
Bi (Hoà Bình). Năm 1954 cha mẹ ông di cư vào Buôn Ma Thuột và cắm chốt ở mảnh đất
Hoà Thắng, khi ấy còn là rừng rậm um tùm. Ông kể, hồi nhỏ còn thấy cha bắt được cầy
cáo và heo
rừng nhiều vô kể. Được sinh ra ở Buôn Ma
Thuột - năm 1960 - nghĩa là ông Đổng là
thế hệ đầu tiên ở đây trưởng thành trên đất Tây Nguyên. Qua hai thế hệ lập nghiệp, đến
nay cuộc sống gia đình ông Đổng đã rất ổn định và chắc chắn. Các con của ông Đổng đều
đã trưởng thành. Con gái học đại học sư phạm và hiện đang là cô giáo trường tiểu
học gần nhà. Thu nhập của gia đình chủ yếu từ rẫy cà phê. Khi tôi hỏi
về số thu nhập cụ thể, ông Đổng hơi ngập ngừng, cũng ít thôi, thì cỡ khoảng chừng
trăm triệu gì đó. Có lẽ ông Đổng không biết đấy là con số trong mơ của những người
nông dân? Ông Đổng vui vẻ kể về công việc tự nguyện làm thủ từ ở đình Mường Bi. Đây là công việc ông
nhận làm tự nguyện vì việc mưu sinh cũng đã không còn vất vả nữa. Ông
vui vẻ khoe, sau hơn 60 năm sống ở Tây Nguyên, đại gia đình với các con và các cháu cũng
đã trưởng thành, có cuộc sống sung túc, an yên. Ông chỉ nói nhiều về cộng đồng Mường
và ngôi đình mà ông hết lòng chăm sóc.
Ở ngôi đình
này, ông Đổng cùng với cư dân thôn Mường Bi tổ chức những lễ nghi hằng năm, lễ
Khai Hạ mùng Bẩy tháng Giêng, lễ rằm Tháng Bẩy, lễ Cơm mới tháng Mười, lễ đón
Năm Mới. Kinh phí hoạt động nhờ vào sự đóng góp tự nguyện của các hộ dân trong
thôn. Có thể tuỳ theo khả năng kinh tế của từng hộ, nhưng ít nhất là 100 ngàn đồng
cho một năm.
Người Mường thôn Mường Bi vẫn giữ nguyên tập quán dân
tộc Mường khi xây dựng ngôi đình. Tập quán người Mường vốn sinh sống nơi vùng
thấp ruộng nước, nhất định phải là cây đa bến nước. Ông Đổng dẫn tôi xuống phía
bờ tre um tùm, che khuất con suối chảy ngang hướng đông nam của đình. Nếu không xuống tận nơi, tôi cũng
không biết đó là con suối. Mùa khô này, con suối cạn sạch nước nhưng mùa mưa sắp đến
rồi, sẽ đủ tưới nước cho cả cánh đồng lúa mênh mông trước mặt.
Ông Đổng nói rất yêu thích công việc này. Vào ngày
mùng Một và ngày Rằm, ông Đổng vẫn qua lại thắp hương trên ban thờ và quét dọn
lá rơi rụng. Tuỳ theo vùng miền, nhưng về cơ bản thì người Mường không có tục lệ
thắp hương thường xuyên ngày rằm và mùng một. Nhưng theo tâm lý thì phải chăng giữ gìn
nơi
thờ cúng cho sạch sẽ gọn gàng thì tâm linh thanh thản nhẹ nhõm hơn. Ông Đổng yêu
thích công việc và găn bó thực sự với ngôi đình. Việc chăm sóc lễ nghi truyền
thống khiến cho cộng đồng người Mường Hoà Thắng vơi bớt nỗi nhớ quê hương. Đồng
thời, như một sợi dây kết nối khăng khít với ông bà tổ tiên ngoài quê cũ. Ông Đổng
kể rằng ngoài quê cũ vẫn còn có họ hàng, và ông cũng mới về Bắc thăm người
thân. Nhưng bây giờ quê mới lại là nơi có quá nhiều gắn bó khiến cho không thể
xa lâu được. Tự nguyện bỏ thời gian và tâm sức ra phục vụ cộng đồng, mỗi cá
nhân sẽ làm cho cuộc sống cộng đồng người Mường nơi đây ngày càng được kết nối
khăng khít bởi đời sống văn hoá tâm linh lành mạnh.
Nếu đất nước phải
đi qua những trang sử thăng trầm vì những cuộc chiến tranh tiếp nối. Thì số phận
con người thực sự là những người khổng lồ khi phải mang vác những gánh nặng éo
le và bất ngờ mà lịch sử mang lại. Chị Bùi Thị Hạnh đã vào tuổi lục tuần nhưng vẫn
giữ được dáng hình mảnh mai với khuôn mặt xinh xắn, mỏng mày hay hạt,
với giọng nói nhỏ nhẹ gần như giữ nguyên âm sắc Mường Bi. Chị Hạnh thủ thỉ kể với
tôi về những thăng trầm mà bản thân chị và gia đình đã trải qua trong chiến
tranh, tính từ thời điểm 1954, khi cha mẹ di cư vào Buôn Ma Thuột.
Người cha Bùi Văn Diên, ở ngoài Bắc từng theo hầu nhà
Lang Mương Bi, đã từng đi lính thay cho nhà Lang, đóng quân ở Hà Nội 2
năm. Ông mang cả gia đình vào Đắk Lắk
năm 1954. Cho đến năm 1961 tham gia đội
lính của Lang Đinh Công Tuân, nuôi dưỡng mục tiêu lý tưởng là thành lập quân đội
riêng, giành chiếm đất dựng ấp, lập cơ nghiệp nhà Lang trên Tây Nguyên. Hồi đó,
đội lính Mường của các quan nhà Lang Mường khá đông và mạnh, nổi lên ở nhiều
nơi, trong đó tiêu biểu là đội lính Mường của Quách Công Liên ở Đồng Nai, đội
lính Hà Công Tố ở Buôn Trấp là của người Mường Phú Thọ. Sau này, khi đội lính của lang Mường bị dẹp yên, thì
ông Bùi Văn Diên đăng lính. Ông đã từng là gián điệp, được đưa ra ra miền Bắc
nhảy dù ở Thanh Hoá thì bị bắt. Từ năm 1964 tới năm 1983 ông Diên sống ở trong
các trại cải tạo trên miền Bắc, nhưng gia đình không hề biết. Năm
1984, ông Diên trở về Hoà Thắng sống cùng gia đình. Ông Diên mất năm 2001, thọ
70 tuổi
Sự mất tích của ông Diên đã khiến gia đình làm đám ma
hai lần, trong đó có làm ma khô theo phong tục Mường để cho người vợ có thể tự
do đi lấy chồng. Chị Hạnh kể về người cha với giọng xót xa nhớ thương, vì tuổi
thơ của ba chị em Hạnh vắng bặt bóng cha. Đến khi cha trở về, thì thời gian sống
cùng gia đình lại quá ngắn ngủi. Phải hiểu sâu sắc những thiệt thòi, mất mát ấy là do
bi kịch lịch sử mang lại. Thế nên, khi kể chuyện, chị Hạnh vẫn giữ nét an nhiên
như đời người phải nương bóng số phận mà
men theo.
Người mẹ là Nguyễn Thị Sen, năm nay 92 tuổi, hiện đang
sống cùng gia đình chị Hạnh. Theo lời chị Hạnh kể thì mẹ chị rất xinh đẹp. Khi cha bị
mất tích thì có nhiều người ngỏ lời cầu hôn với bà. Đặc biệt là lang Đinh Công
Tuân đã từng công khai
theo đuổi và dùng mọi cách ép buộc cô Sen về làm vợ. Khi ấy, cô Sen buộc phải
đóng giả làm đàn ông để tránh sự ép gả cho nhà Lang. Để nuôi ba đứa con khôn lớn,
bà Sen đã làm rất nhiều nghề, làm ruộng rẫy, bán bánh ở chợ. Hồi chiến tranh, xã Hoà
Thắng vốn là vùng giáp ranh, ban ngày là của chính quyền Cộng Hoà, nhưng ban
đêm lại là của bộ đội và du kích kháng chiến. Chị Hạnh chỉ tay ra phía đường quốc lộ,
trước mặt chỗ chúng tôi trò chuyện và nói đằng kia là ấp chiến lược và hàng rào
dây thép gai. Nhưng chỗ mình đang đứng đây – cách đường quốc lộ khoảng 500m –
là rừng rú rậm rạp, nơi bộ đội và du kích về với dân. Sống ở vùng đất giáp
gianh cài răng lược, người đàn bà Mường khéo léo và đảm đang ấy vừa bán bánh
nuôi con, vừa làm giao liên cho bộ đội du kích. Thư từ, súng đạn, đồ tiếp tế
cho bộ đội du kích được khéo léo giấu dưới mẹt bánh. Bà Sen làm giao liên suốt
những năm chiến tranh mà không bị lộ là nhờ vào nhan sắc xinh đẹp, sự thông
minh và khéo léo.
Khi kể về mẹ, chị Hạnh không giấu được niềm cảm phục mẹ,
xen lẫn ngậm ngùi khi nhắc lại ký ức khủng khiếp, người ngoài khó mà tưởng tượng được
nỗi đau khổ khi cuộc đời người đàn bà
92 tuổi mà có tới hai lần làm đám ma cho chồng. Tôi cũng cố gắng
mà cũng không thể hình dung hết nỗi vất vả cay đắng mà bà Sen đã mang trên đôi
vai mảnh khảnh, đã đi qua số phận bằng nghị lực mạnh mẽ khác thường. Mới hiểu
và ngẫm ra, lịch sử thường được thiết lập từ những cuộc đời người dân bình thường
vô danh, những người dân cần cù sống trên miền đất họ từng gắn bó. Mặc dù số phận
éo le hay suôn sẻ, họ đều ghi dấu ấn vào trang lịch sử bi tráng và hào hùng của
dân tộc.
Chúng ta thường nói về những bi kịch đời người rằng đó
là số phận phải mang. Như những suy nghĩ quá quen thuộc như lối mòn trong suy
nghĩ. Chúng ta lại thường nói ra những
điều to tát như số phận dân tộc, vận mệnh đất nước. Nhưng giờ thì tôi nghĩ
khác, phải chăng những điều hay được nói bằng những lời đao to búa lớn kia vẫn
đang tồn tại một cách giản dị trong những gia đinh có đứa con buộc phải lìa xa quê hương.
Trong không
gian bản làng của người Mường, bên bờ ao hoặc lối đi xuống suối, người Mường
không thể thiếu những cây sung mật quả bám trĩu trịt quanh gốc cổ thụ sần sùi vệt
múi thời gian. Nếu như có thể ví những đứa con lưu lạc xa quê ấy đã bị những éo
le của khoảnh khắc lịch sử rứt ra khỏi dòng họ như trái sung mật bị rứt ra khỏi
gốc cây. Nhưng ở nơi quê mới, họ vẫn sinh sống một cách can trường để vượt lên
trên số phận. Phải chăng, chính những người dân bình thường vất vả và lam lũ mới
làm nên sự trường tồn của dân tộc Việt Nam trên dải đất hình chữ S yêu dấu này.
Thì bây
giờ, ở tuổi 92, cụ Sen đã có thể hưởng phúc an yên cùng con cháu. Cuộc đời cụ Sen khiến tôi thấu
hiểu hơn về miền đất cao nguyên đã từng thấm máu và mồ hôi công sức
của nhiều thế hệ người Việt Nam đi qua chiến tranh.
Phải chăng ngày
nay, chúng ta cần có cách nhìn nhiều góc độ hơn, toàn diện hơn về quá khứ. Bất cứ
cuộc chiến tranh nào thì người dân cũng phải mang vác những bi kịch éo le. Nếu ai
đó có nhắc lại thì cũng là để nhớ rằng chiến tranh gây chia lìa ly tán biết
bao gia đình. Nhớ lại để cho lòng người biết sống bao dung và biết chia sẻ hơn. Nhắc nhớ
quá khứ bi kịch eo le như một cách để chúng ta thanh thản hơn, để nhìn về cuộc
sống tương lai chỉ đơm hái những mùa hoa trái ngọt ngào.
Kể về bản thân chị Hạnh lại rất bình thản, là cái an nhiên của người đã từng
đi qua
núi cao vực sâu. Nếu từ hồi nhỏ, chị Hạnh đã cùng mẹ làm ruộng làm rẫy và phụ mẹ buôn bán
nuôi các em, thì hiện giờ chị vẫn làm từng ấy công việc nuôi con và chăm sóc mẹ già. Có
chăng là thêm việc trông coi cửa hàng photocpy thêm thắt vào cuộc
sống hàng ngày. Thu nhập từ rẫy cà phê cũng được khoảng từ 80 đến trăm triệu một
năm, đủ cho chi phí vào những việc lớn trong gia đình.
Vào tuổi
học hành, chị Hạnh cũng được mẹ cho đi học hết phổ thông trung học. Chị nói vẻ đầy nuối tiếc,
tuy học rất khá nhưng lí lịch gia đình phức tạp thì làm sao vào được trường đại
học? Bây giờ, những đứa con của chị Hạnh đã học bù lại cho phần của mẹ.
Cô con gái học xong đại học và đang làm ngành ngân hàng. Cậu con trai đang học
đại học dưới thành phố. Chị rất tích cực tham gia công tác ở xã, hiện đang đảm nhiệm phụ
trách đoàn thể phụ nữ của thôn Mường Bi. Chị nói, cuộc sống hiện tại như thế là
tốt lắm rồi, và không mong ước gì hơn. Hai vợ chồng chị vẫn khoẻ mạnh
để chăm sóc mẹ già, để nuôi dạy các con trưởng thành trên quê mới.
Dù không sinh ra ở quê gốc Mương Bi, nhưng chị Hạnh vẫn
đau đáu nỗi nhớ quê. Ngay sau ngày đất nước thống nhất, chị Hạnh đã viết thư về
quê tìm họ hàng, và chị đã được gặp lại hai
người chú và một người bác. Đôi mắt nâu ngời sáng, thể hiện niềm vui của chị Hạnh
khi kể về Mường Bi quê gốc vẫn là nơi chốn cho chị đi về thăm hỏi. Ngẫm ra, thế
hệ thứ hai như chị Hạnh đã có cách nhìn và cách nghĩ năng động với tư
duy rộng rãi hơn, nhưng vẫn giữ nguyên bản chất dân Mường, hiền lành chân
chất mộc mạc như đất đồi sau nhà, con suối
trước ruộng.
Dường như mỗi thời khắc biến động của lịch sử
đều in dấu lên số phận đời người. Chấp nhận và kiên cường vượt lên trên số phận
là bản chất của những người nông dân miền núi Tây Bắc nói riêng và của người Việt
Nam nói chung. Từ vùng núi đá, người Mường Tây Bắc mang thói quen lao động cần
cù trung thực để sống với miền đất đỏ cao nguyên. Những người
con xa quê Mường lại làm nên một vùng Mường đậm bản sắc
văn hoá, làm cho quê mới trở nên ấm áp hơn, và nhất là không thể rời xa vì đã gắn bó như phần máu thịt của quê hương. Lại ước mong
có một dịp Tết Nguyên Đán nào đó được nếm ngụm rượu cần ngọt ngào mà dễ say
lòng người ở đình Mường Bi trong lễ Khai Hạ trên miền cao
nguyên. Tôi tạm biệt Hoà Thắng với nhiều lưu luyến vì biết rằng không dễ để
trở lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI