Thứ Tư, 22 tháng 5, 2019

MẤY ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT QUA TẬP THƠ LÁ CHIÊM BAO CỦA ĐẶNG BÁ TIẾN tác giả LÊ THÀNH VĂN - CHƯ YANG SIN SỐ: 321 tháng 5 năm 2019






Nhà thơ Đặng Bá Tiến là tác giả của một số tập thơ và trường ca được bạn đọc chú ý những năm gần đây: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017). Vốn xuất thân từ một nhà báo nên thơ anh giàu chất thời sự, ôm chứa nhiều cảnh đời và cuộc sống bộn bề với biết bao suy tư, trăn trở. Đặc biệt, trong lần xuất bản tập thơ tình yêu Lá chiêm bao (2019), độc giả còn nhận ra những giá trị nghệ thuật đặc sắc, khẳng định cá tính sáng tạo, góp phần mang lại thành công nhất định cho tập thơ này.
Lâu nay, các mô típ mang tính biểu tượng trong thơ tình yêu Việt Nam từ ca dao đến thơ hiện đại thật đa dạng và phong phú. Trong ca dao, ta bắt gặp các biểu tượng thuyền - bến, mận - đào, trúc - mai...; đến thơ hiện đại, các biểu tượng trên vừa tiếp tục được kế thừa, đồng thời được các nhà thơ sáng tạo thêm như hoa khuê các - bướm giang hồ, biển - bờ, thuyền - biển của Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh... đã bồi đắp thêm những giá trị nghệ thuật cho nền thơ dân tộc. Đọc Lá chiêm bao của Đặng Bá Tiến, tôi bỗng nhận ra hình tượng cỏ xanh đã ám ảnh xuyên suốt tập thơ như một biểu tượng nghệ thuật đặc sắc. Có cỏ xanh đợi chờ, thương nhớ. Có cỏ xanh hoài niệm, khát khao. Có cỏ xanh thủy chung bền chặt. Có cỏ xanh hiến dâng, thánh thiện. Có cỏ xanh xót xa, tiếc nuối... Cỏ xanh thăm thẳm qua nhiều chiều không gian, thời gian. Cỏ là giường chiếu, cỏ là nệm tình, cỏ là nỗi đợi chờ êm ái... Có thể nói rằng, xuyên suốt tập thơ, hình tượng cỏ xanh bạt ngàn, thăm thẳm đã làm nên vẻ đẹp và chuyên chở cảm xúc về tình yêu của nhà thơ đến với trái tim người đọc. Trong Lá chiêm bao, cỏ không đơn thuần chỉ là không gian của thiên nhiên, trời đất, nơi tình yêu  hẹn hò. Cỏ có khi hiện lên như một người tình kiều diễm, biết khao khát, đợi chờ; biết nhớ nhung, hoài niệm. Cỏ hóa thân vào cảm xúc của thi nhân, giăng mắc tràn đầy trong ký ức. Hãy lắng nghe cỏ bồi hồi, run rẩy, đắm say: "tháng này/ mùa thu năm ấy/ trăng nhuộm vàng sông Đáy ngừng trôi/ gió hồi hộp/ cỏ xanh run rẩy/ khi lần đầu hai đứa chạm môi..." (Nhớ). Cỏ hiện về qua tâm thức hoài niệm, xuyến xao: "Giá như ngày ấy ông trời/ dẫn hai người tới hai nơi cách trùng/ thì đâu có chuyện tao phùng/ để rồi nhớ mãi một vùng cỏ non" (Giá như). Cỏ đợi chờ, thủy chung qua thời gian để rồi nơi vườn thu xưa cũ, trăng triệu năm còn yêu tha thiết và cỏ cũng đan thanh chờ mãi một cuộc tình: "này em/ trăng và vườn thu như đã kết hôn nhau/ ánh trăng vàng và lá vàng đang xôn xao quấn quýt/ trăng triệu năm vẫn còn yêu tha thiết/ em thấy không/ thảm cỏ biếc đang chờ..." (Vườn thu). Cỏ ám ảnh hồn thi nhân ngày sáng ánh mặt trời hay đêm về mơ mộng, cỏ khát thèm từ thuở đôi mươi hay đã qua trải nghiệm trường đời: "Tuổi 20 trên vạt cỏ êm/ muốn uống cả trời sao thiếu nữ/ anh lên rừng xuống bể/ mãi khát thèm đại dương..." (Nỗi khát sa mạc). Hòa nhập nỗi lòng thi nhân, cỏ xanh đôi khi cũng biết xót xa, tiếc nuối và mơ tưởng những gì chưa trọn vẹn trong tình yêu: "Bây giờ cỏ đã rối bời/ sương đêm đã cóng những lời cầu mong" (Nỗi niềm); "Thì tự ru mình/ võng cỏ đung đưa/ trái tim hỡi đừng buồn ai lỡ hẹn" (Dỗ trái tim). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng, trong tập thơ Lá chiêm bao với hơn 90 bài thơ tình này, nhà thơ Đặng Bá Tiến đã giúp người đọc có được một cảm thức thẩm mỹ khá toàn diện về hình tượng cỏ xanh. Có lẽ ít có thi nhân nào lại chắp đôi cánh cho lá cỏ hiền lành, đơn sơ một dung mạo tinh thần đủ đầy, nhiều trạng thái cảm xúc và đáng yêu nhường ấy. Có bao nhiêu cung bậc tình yêu thì biểu tượng cỏ xanh trong tập thơ Lá chiêm bao cũng hát ca, nhớ thương, đợi chờ ... ngân nga chừng ấy cung điệu. Nhờ đó, biểu tượng cỏ xanh đã góp phần hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn và diện mạo tình yêu trong thơ Đặng Bá Tiến.
Ngoài biểu tượng cỏ xanh như một thông điệp đầy ám ảnh và chuyên chở nhiều cung bậc cảm xúc trong tình yêu, tập thơ Lá chiêm bao còn cho ta bắt gặp hình tượng căn phòng xuất hiện với một tần số khá cao. Căn phòng, cánh cửa, then cài, vách tường... như những mảng không gian ngưng đọng để nơi đó nhà thơ bộc lộ cảm xúc nhớ thương, đợi chờ, buồn đau, mất mát trong tình yêu. Người con gái có mái tóc dài, đẹp chỉ một lần lướt qua trong đời, nhưng Đặng Bá Tiến ám ảnh trong nỗi đợi chờ mòn mỏi. Từ đó, ngọn gió đất trời như cũng có màu từ mái tóc em bay. Trong căn phòng cô lẻ, một tâm hồn vẫn khát khao gặp lại hình bóng cố nhân: "Năm qua/ rồi lại tiếp qua năm/ chiếc ghế vắng trong phòng vẫn đợi/ mỗi chiều tím anh lại ngồi nhặt sỏi/ ném xuống hồ cho nước bớt đơn côi" (Ngọn gió có màu). Trong bài thơ Chiếc khăn khá dài như một niềm tâm sự thầm kín, nhà thơ nhiều lần tự chất vấn chính mình về chiếc khăn người con gái bỏ lại trong căn phòng rồi ra đi mãi mãi. Hình tượng thơ giống mô típ "quên áo" trong ca dao, song lại ám ảnh người đọc, khơi dậy nhiều cảm xúc qua hình tượng "căn phòng vò võ thân trai": "Em quên/ hay cố tình để lại/ chiếc khăn len thoang thoảng hương nhài/ tôi cài then mong mùi hương ở mãi/ trong căn phòng vò võ thân trai" (Chiếc khăn). Căn phòng trở thành một ám ảnh của thi nhân, có lẽ ở đó có biết bao kỷ niệm, biết bao dồn nén nhớ thương. Với Đặng Bá Tiến, căn phòng không đồng lõa với ái ân, với tình yêu xác thịt; căn phòng chính là nơi kỷ niệm tràn về, là sự hoài tưởng xa xôi một giấc mộng tình yêu đã ngàn trùng xa cách. Căn phòng là nơi anh thả con thuyền ký ức ngược thời gian để tìm đến dĩ vãng êm đềm, hạnh phúc thuở xa xưa: "Ở đây mai vừa hé nụ vàng/ ngoài ấy đào hẳn vừa môi thắm?/ anh lại ngồi bên song yên lặng/ thả con thuyền ký ức ngược thời gian" (Ký ức). Xót xa hơn, có nhiều khi nhà thơ lặng lẽ một mình, nói với bóng mình trên vách, trong tay ly rượu tràn trề mà không thể cười, không thể khóc, không thể say: "Nghĩ đời mình... ngày đã cuối chiều/ chỉ bầu bạn với bóng mình trên vách/ rượu một ly không thể cười không thể khóc/ không thể say nên không thể vơi buồn" (Một chút chiều xuân).
Bên cạnh các biểu tượng mang đậm tính thi pháp, ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng trong Lá chiêm bao được diễn đạt khá trực cảm, chân mộc thông qua một cảm xúc mãnh liệt từ điệu hồn tác giả. Trong tình yêu, những cung bậc cảm xúc được nhà thơ bung tỏa chân thành, không quá cầu kỳ, cách điệu. Mong ngóng được sớm gặp người tình, Đặng Bá Tiến cứ muốn "hô mưa gọi gió", thể hiện khát vọng cá nhân tha thiết, muốn tước đoạt cả quyền năng vô biên của tạo hóa. Mặt trời là của anh mà vầng trăng cũng là "của riêng ta đấy". Chính cách thể hiện mới mẻ ấy đã mang đến cho thơ anh một vóc dáng riêng về mặt cảm xúc là cực mạnh, cực điểm: "Anh rung ngày cho mặt trời chóng rụng/ cho vầng trăng sớm ngự đỉnh trời/ trăng của muôn người và của riêng ta đấy/ giờ hẹn hò đã tới em ơi !" (Trăng). Thơ tình yêu Xuân Diệu có cái khao khát vô biên và tuyệt đích ấy, song có lẽ vẫn nhẹ nhàng hơn: "Ta muốn tắt nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mất/ Ta muốn buộc gió lại/ Cho hương đừng bay đi" (Vội vàng). Xuân Diệu "muốn" còn Đặng Bá Tiến hành động thật, "rung ngày" thật. Nhiều động từ được nhà thơ dùng nghe thật lạ, thật khác người. Anh "hốt chiều', anh "nhuộm hồn trong màu tím nhớ", cầu mong được nằm trong võng gió êm đềm mà lắng nghe hơi thở của người tình, mơ ước được em một lần máy mắt để lòng mình ấm buổi chia phôi. Cả một trời thực và mộng cứ đan cài, tan hòa vào nhau không sao phân định: "Anh hốt chiều vào túi hoàng hôn/ rồi nhuộm hồn trong màu tím nhớ/ Trời thương cảm ru anh trong võng gió/ nơi mây về em có máy mắt không ?" (Hơi thở một người). Viết về nỗi nhớ trong tình yêu, Đặng Bá Tiến có những cách biểu đạt thật ấn tượng: "Tôi uống ngập cả hồn tôi như lũ/ để trẫm mình trong rượu nhớ nhung/ ấy là khi hồn tôi thoát xác/ bay tìm em quấn quýt tao phùng" (Thoát xác). Dù có lúc trực cảm, mạnh mẽ khi diễn đạt những yêu thương, nhớ nhung, mất mát trong tình yêu, song thơ tình Đặng Bá Tiến vẫn có những gam màu ngôn ngữ dễ thương, yêu ái và giàu sắc thái biểu cảm qua một số hình tượng thơ thật đẹp và lãng mạn. Hãy nghe anh so sánh tháng giêng và em đồng hành như một nỗi khát khao vẫy gọi ngàn đời: "Tháng Giêng là gái chưa chồng/ em như cây cải trổ ngồng rực hoa !" (Tháng Giêng). Hãy nghe anh say đắm và "bồng bềnh theo cảm xúc" trong một "Đêm Lào Cai" lãng đãng, nồng nàn: "Lào Cai/ rượu thơm tràn ngực ai/ mắt trẫm mình trong mắt/ Em như là mùa gặt/ ta chờ từ mạ non..." (Đêm Lào Cai). Bài thơ Một lần trên cỏ hay và độc sáng khiến người đọc khó quên nhờ cách diễn đạt thật ấn tượng qua các phép tu từ ẩn dụ, nhân hóa và sự thăng hoa của cảm xúc nằm ở hai câu thơ cuối bài mà tôi gọi đó là "vết xước hoa" từ "gót hoa" của giai nhân kiều diễm: "ta nằm mong được dẫm qua/ một lần đau bởi gót hoa cũng đành" (Một lần trên cỏ). Một chữ "sầu" trong bài Giá như đã làm cho sông Cầu như một sinh thể biết yêu thương, hờn giận. Sông Cầu hóa thành con sông của niềm tương tư, sầu muộn và cả nỗi xót xa ngàn đời của đôi lứa yêu nhau. Nhà thơ Đặng Bá Tiến vô tình đã "đổ sầu" cho con sông thi ca nhạc họa ấy đeo đẳng kiếp sống của một nhân tình hoài niệm, nhớ thương: "Giá như ngày ấy sông Cầu/ không xanh đến mức đổ sầu cho ai" (Giá như). Ngoài một số biện pháp tu từ nghệ thuật giàu sáng tạo về mặt ngôn ngữ, cách biểu đạt ấn tượng thăng hoa từ cảm xúc của hồn thơ tác giả, người đọc còn bắt gặp một số bài thơ có cấu tứ mới mẻ, nhờ đó mà ta khó quên và cứ mãi đằm sâu trong ký ức, dù chỉ đọc một vài lần. Có thể kể ra đây một số thi phẩm tiêu biểu như Trăng, Mưa héo, Một lần trên cỏ, Ghen với chuồn kim, Gót hồng, Khi anh yêu, Trái tim điên, Chùm thơ không đề (Bài số 10), Đêm Lào Cai, Giá như..., Hơi thở em hồi hộp đến bây giờ, Chiếc khăn, Mắc nợ... Tóm lại, trên bình diện ngôn ngữ nghệ thuật, thơ viết về đề tài tình yêu của Đặng Bá Tiến, ngoài nét thô mộc và trực cảm của một nỗi lòng tha thiết và đắm say, cách biểu đạt giàu tính hình tượng thông qua ngôn ngữ và những kiểu biểu đạt mới mẻ bằng chính điệu hồn thăng hoa từ cảm xúc đã góp phần làm nên những thành công nhất định cho tập thơ Lá chiêm bao của tác giả.
Tìm hiểu, nghiên cứu những nét đặc sắc về nghệ thuật trong tập thơ Lá chiêm bao của nhà thơ Đặng Bá Tiến vẫn còn nhiều góc khuất, khía cạnh khác nữa. Với tư cách là người viết yêu mến thơ anh, khao khát được khám phá thơ tình yêu của một tác giả vốn khá thành công ở các đề tài thế sự nóng bỏng, gai góc trong cuộc sống đương đại, vì vậy tôi chỉ mới phác họa một vài cảm nhận hết sức khái quát trên bình diện nghệ thuật. Phần "trầm tích", phần chìm của tác phẩm từ nội dung tư tưởng đến các giá trị nghệ thuật, độc giả sẽ tiếp tục đồng hành khai mở và phát hiện thêm. Thơ tình yêu, cứ đọc mà mê, cứ đọc mà say, cứ đọc mà nhớ... Với tập Lá chiêm bao của nhà thơ Đặng Bá Tiến, điều đó hẳn đúng lắm thay!







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI