Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2019

ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC TÂY NGUYÊN tác giả HỮU CHỈNH - CHƯ YANG SIN SỐ: 327 tháng 11 năm 2019



(Đọc Màu thổ cẩm – Thơ Bùi Minh Vũ – NXB Hội Nhà văn – 2019)


Đây đã là tập thơ thứ 10 của Bùi Minh Vũ, không kể tiểu thuyết, nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn. Điều đó chứng tỏ sức viết bền vỉ, dẻo dai của tác giả.
Màu thổ cẩm đậm đặc hương vị của vùng đất Tây Nguyên – Đắk Lắk. Một bài thơ gây ấn tượng mạnh cho tôi là bài Đêm nghe tiếng khóc trâu:
Nức nở như mưa/ Nhuộm trăng vàng/ Màu đêm trắng.
Tiếng khóc nào về đêm cũng buồn, thê lương, xa vọng. Ở đây, không gian, thời gian phụ họa nỗi buồn: Mưa, trăng vàng, màu đêm trắng để càng buồn hơn, để dẫn đến khổ thơ đau xé lòng:
                              Lời nỉ non, mời trâu ăn cỏ lần cuối
                              Uống nước suối lần cuối
                              Xứ A Tâo xa lắm, trâu ơi
                              Sương nương buồn bời bời.
Con trâu thân thiết với người được (hay bị) làm vật hiến tế, hiến sinh. Điệp từ lần cuối thương lắm, ăn cỏ, uống nước cũng là lần cuối để trâu về với xứ A Tâo cùng ông bà, tổ tiên để thi nhân nhỏ lệ thương cảm: Sương nương buồn bời bời.
Một bài thơ, nếu đúng dịp thi viết về môi trường thì chắc có giải:
                              Ơ cái nước hát reo
                              Cháu con phải biết trồng cây trên rẫy, trên đồi.
Hai câu này chỉ là lời kêu gọi bình thường, nhưng những câu sau thì cái lạ hóa của thơ đã găm vào lòng người đọc:
                              Đất trồng nên sông/ Sông trồng nên cá
                              Suối hối hả/ Trổ hoa/ Nghe con chim hót.
                                                                                 Nghe cây hát
Chưa gặp thơ ai viết như Vũ: đất trồng, sông trồng. Đất, sông cũng là người. Có nước, có cá, có hoa, có chim là do người bảo vệ môi trường, phải có rừng. Thơ lạ mà thâm thúy.
Cùng chủ đề rừng, Minh Vũ viết nước là nguồn gốc sự sống, cũng là nguồn cội của văn hóa dân tộc:
                              Nước không về bến nước/ Con nai khát ven rừng
                              Chiếc gùi khóc rưng rừng/ Tiếng chiêng rơi lưng chừng.
                                                                                                      Nước
Không gian như ngưng đọng để dẫn vào câu kết:
                              Quả bầu/ Lăn xuống vực sâu
Không còn nước thì không còn ai mang bầu đi lấy nước, không còn bến nước. Thơ nghẹn lòng, tức tưởi.
Giữ được cây, được rừng, giữ được nước cũng là giữ được văn hóa của một vùng đất.
Bài Cổng nhà Yàng đậm đặc phong tục trong lễ cầu mùa, mang cho mùa màng tốt tươi khi mưa thuận gió hòa, từng chi tiết tả thực sinh động. Kết bài nói được cảm xúc của người dự lễ:
                              Khuya rồi/ Người muốn về
                              Tiếng chiêng vang dài như sợi dây trói lại.
Đêm đã về khuya mới có cảnh dùng dằng nửa ở nửa về, nhưng cuối cùng ở lại bởi dây trói của tiếng chiêng, của tâm thế văn hóa cồng chiêng.
Bài Ra bờ sông buổi sáng có cả phần trữ tình, phần tự sự và cả chút triết lý ẩn sau câu chữ:
                              Khi nào em buồn/ Nhìn xuống đáy nước
                              Nỗi buồn sẽ bị nhấn chìm
                              Trước ánh bình minh lan tràn chiếm giữ hồn em.
Em nhìn xuống đáy nước, thấy gương mặt mình, rửa mặt hay tắm gội để thanh lọc tâm hồn, nỗi buồn bị nhấn chìm trong nước, trước ánh bình minh lan tỏa, được tiếp thêm năng lượng tràn trề.
Trong tập có nhiều bài thơ ngắn mang tính triết lý đều đáng đọc như các bài: Về núi; Mảnh vỡ; Nơi tổ tiên họ ở…
Đặc biệt bài Tiếng cười tiếng khóc là bài cực ngắn, đúng 10 âm tiết:
                              Tiếng cười thường hết hạn sử dụng
                              Trước tiếng khóc.
Câu thơ như một châm ngôn của người từng trải, tổng kết quá trình sống và trải nghiệm. Cái hay của thơ là sáng tạo từ mới, câu mới. Tiếng cười hết hạn sử dụng là câu như thế. Tiếng cười mau qua còn tiếng khóc thì dai dẳng, âm ỉ. Chọn cách sống nào để tiếng cười kéo dài hơn.
Bài Những cành mây hiểu đa nghĩa, xen giữa thực và ảo. Mười đầu ngón chân rỉ máu (có thể đi chân trần bị gai mây cào xước) là thực. Nhưng Hoàng hôn cười/ Thòng xuống những cành mây cô độc lại là ảo. Chiều buông thả cả mây trời.
Tôi thích tứ thơ:
                              Lửa vừa nhen/ Cháy lên chùm mặt trời
                              Lướt thướt/ Giọt sương/ Mổ vào chiếc lá.
Chùm mặt trời là từ lạ. Sương mổ vào lá cũng lạ. Đắt ở từ chùm và mổ. Thường viết sương đậu, thì đây là mổ tưởng có âm thanh lộp độp hay tí tách.
Phiêu du theo tập thơ khá dày dặn, lẩy ra những câu, những bài tâm đắc (chưa hết đâu), giờ là lúc quay lại với  bài thơ được lấy tên chung cho tập. Màu thổ cẩm đủ độ điển hình:
                              Họ yêu nhau từ lúa trước hoàng hôn
Thời gian, không gian chỉ là ước lệ, vô định, giả định.
                              Hẹn gặp phải qua năm đồi, bảy rẫy
                              Nhớ thương phải đến lễ hội trong buôn
                              Quấn quít phải ra bờ suối vắng.
Cảnh yêu đương rất thật, rất cụ thể, qua thử thách vượt năm đồi, bảy rẫy. Tìm nhau trong lễ hội rồi bờ suối vắng tự tình.
                              Chẳng ai thấy họ mặc áo màu gì
                              Đêm bẽn lẽn có chơi trò đối đáp.
Tất nhiên, đêm thì làm gì nhìn thấy màu, sắc. Đêm bẽn lẽn là từ hay, có e ngại, có thẹn thùng và cả làm dáng ẩn chứa:
                              Tay trong tay say sưa vừa tháng Chạp
                              Trăng mênh mang vàng suối nước thầm thì.
Từ vàng gánh cả hai nghĩa: trăng vàng, suối vàng như lời tâm sự được đồng cảm, lan tỏa từ người sang cảnh. Đây là khổ kết bài thơ:
                              Bóng của họ nhuộm sắc màu thổ cẩm
                              Tiếng yêu thương suối chảy, đá mòn
                              Còn thổn thức lửa tràn tay say đắm
                              Trên nương rẫy bao la dấu chân tròn.
Bằng tiềm thức mà đoán định sắc màu, có màu xanh của rừng, màu đỏ của đất chứ đêm thì nhìn không rõ. Trái lại nghe rõ âm thanh của nước chảy, đá mòn và cảm được sức nóng của tình yêu: Lửa tràn tay say đắm.
Bài thơ có 12 câu thì 11 câu khá, câu cuối cùng hơi đuối, có vẻ dễ dãi:
                              Trên nương rẫy bao la dấu chân tròn.
Thường yêu nhau, khi gặp nhau là ngồi một chỗ, đi lắm làm gì cho mỏi chân. Cụm từ dấu chân tròn giống vết chân tròn của Trần Tiến, nhưng Trần Tiến là đi trên cát, ở đây là nương rẫy khó hằn vết. Chẳng lẽ cũng đi bằng nạng? Nếu thay vết chân tròn thành gót chân son có lẽ đúng hơn.
Tập thơ tới 154 bài là thử thách lòng kiên nhẫn của người đọc, nhưng cuốn hút bởi đậm đặc chất Tây Nguyên nên người đọc vẫn lần giở tới trang cuối cùng. Vì dài nên không tránh khỏi có những bài hoài niệm về quê hương không hợp chủ đề. Nhất là bài Hát Môn viết về khởi nghĩa Hai Bà Trưng chẳng ăn nhập gì với màu thổ cẩm.
Bài Anh đừng say nhé, có một chi tiết cần xem lại:
                              Hôm nay lễ cúng lúa
                              Họ chôn nêu sau nhà.
Khi dựng cây nêu mời thần linh về dự, thường ở bãi đất rộng trước nhà cho đủ chỗ đốt lửa để mở vòng xoan, trước nhà cũng là tôn trọng thần linh.
Vài gợn lăn tăn không làm giảm giá trị Màu thổ cẩm – hương sắc Tây Nguyên – hồn cốt Tây Nguyên – thơ Bùi Minh Vũ.
Đọc để yêu thêm vùng đất mình đang sống.
                                                                                   Tháng 10-2019

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI