Bấy giờ đơn vị chúng tôi đóng quân ở cánh rừng chân núi
Chư Yang Sin thuộc vùng căn cứ Thăng Lễ H9 (Krông Bông). Mọi năm cứ giáp Tết là
tổ chức ăn Tết trước. Vừa chiến đấu vừa sản xuất tăng gia, chăn nuôi để giải
quyết phần lớn cung cấp hậu cần tại chỗ, vì thế đơn vị năm ấy cũng gói bánh
chưng, thịt heo, tổ chức ăn Tết tươi hơn, có cả nhân dân tới dự chung vui, quân
dân tình cảm thắm thiết. Ít ngày sau nhận được chỉ thị cấp trên tiếp tục cho
anh em ăn Tết đúng ngày Nguyên Đán theo cổ truyền của dân tộc, thế là năm đó
chúng tôi có hai lần ăn Tết. Ra Giêng, đơn vị hành quân chiến đấu. Ta có loại
H12 vũ khí mới, đầu đạn tìm mục tiêu, uy lực sát thương lớn, nghe nhật lệnh
chiến đấu của Bộ chỉ huy Quân giải phóng khích lệ sĩ khí cán bộ, chiến sĩ lạc
quan tin tưởng, phấn khởi lắm. Xuân 75 này đi chiến đấu (mãi sau mới biết là
chiến dịch), đến cấp ủy, chỉ huy đơn vị cũng chỉ biết nhận nhiệm vụ từng ngày,
từng bước theo kế hoạch. Đúng ngày quy định, lực lượng tập kết tại khu rừng
Buôn Một – Khuê Ngọc Điền có các đơn vị D401 đặc công, D301 bộ binh, C314 hỏa
lực, cơ quan quân sự tỉnh: Tham mưu, chính trị, hậu cần, đội phẫu tiền phương.
Đoàn dân công hỏa tuyến huy động nhân dân vùng căn cứ, đảng viên cán bộ và du
kích làm nòng cốt. Tất cả trong đội hình bí mật hành quân về hướng nam.
Mùa
khô, băng rừng trèo đèo, lội suối vượt sông, mang vác nặng nề gian khổ, cơm vắt
muối hầm, liên tục một tuần lễ, lực lượng tới vị trí tập kết cuối cùng. Sáng
hôm sau hợp đồng tác chiến trên sa bàn, từng đơn vị hạ quyết tâm, anh nuôi nấu cơm
vắt, làm các công tác bảo đảm cho bộ đội sẵn sàng đúng giờ xuất kích.
Đến 2
giờ chiều hôm đó, theo lệnh mới bỏ mục tiêu đánh quận lỵ Đức Xuyên, toàn lực lượng
hành quân khẩn cấp làm nhiệm vụ theo phương án hai.
Trên
đường đi, chúng tôi đã nghe bom đạn nổ ầm ầm hướng Buôn Ma Thuột, máy bay trực
thăng, phản lực, L19… gầm ré điên loạn ào ào không ngớt. Ban đêm đèn dù, pháo
sáng rừng rực vùng trời thị xã. Qua radiô nghe đài Tiếng nói Việt Nam thông báo
chiến thắng dồn dập. Điện trên báo cho biết quân ta đánh địch ở núi Lửa Đức
Lập, làm chủ Thuần Mẫn, cắt đường 14, chốt đồi Chư Ty, tấn công Buôn Ma Thuột…
Chúng tôi háo hức phấn khởi hăng hái bước quân hành.
Ngót
một tuần lễ hành quân, lực lượng tới mục tiêu, sáp vào chiến đấu phối hợp cùng mặt
trận. Đêm 17.3.1975, toàn lực lượng đánh vào quận Lạc Thiện (Lăk), Đến giờ “G”,
C308 (D401) sử dụng một mũi xung lực dùng thủ pháo, AK, B41 diệt tan bọn địch
chốt tiền tiêu trên cao điểm đồi Hiến Binh phía đông sát quận. D301 đột nhập
vào đánh địch ở ấp Liên Sơn, C314 sử dụng hỏa lực cối 82 ly đi cùng tiểu đoàn
bộ binh, DKZ75 nã vào quận lỵ, khống chế hỏa lực địch chi viện đắc lực trận
đánh. Súng 12,7 ly chốt bắn máy bay bảo vệ trận địa, cần thiết hạ nòng quét bộ
binh địch khi có lệnh. Các đơn vị tác chiến hiệp đồng phát triển tốt, pháo nổ
rền, súng bộ binh ran ran, hừng hực thế tấn công. Đại bác 105 ly của địch trong
quận lỵ phản ứng thi thoảng gầm lên ít loạt đạn rít xoèn xoẹt nổ oành oành ở cánh
rừng phía sau đội hình quân ta.
Sáng
18.3, bộ đội ta khép vòng vây quận lỵ, lúc 8 giờ, bọn địch đông đen từ phía đồi
đá qua Lắc Yang Tao thọc về quận hòng giải vây, chúng bị súng đạn hỏa lực quân
ta quật cho tơi bời, xác ngổn ngang trên đoạn đường tới ấp Liên Sơn. Bọn sống sót
tán loạn chạy thục mạng. Quân ta thừa thắng xốc tới. Địch trong quận lác đác
nhảy xuống xuồng bơi ra đảo vượt qua hồ hòng chạy về cánh rừng phía tây. Có một
số xuồng dính đạn pháo chìm nghỉm.
Đến 3
giờ chiều, địch chịu không thấu phải kéo cờ trắng đầu hàng. Bộ đội ta ào ào xông
vào, Nguyễn Đức Thành tiểu đội trưởng, C2 (D301) cắm cờ Giải phóng tung bay phấp
phới tại trung tâm quận lỵ, quân ta làm chủ hoàn toàn. Ngụy quân, ngụy quyền lố
nhố nạp súng, tuân lệnh Quân giải phóng. Hai khẩu 105 ly ghếch đầu súng, bầu
nòng chứa quả đạn vàng chóe, đen sì xù xù như voi phục tại hầm pháo. Bộ đội ta
lên xe GMC chiến lợi phẩm, trương cờ Giải phóng, sử dụng lính ngụy lái đến các
buôn lân cận, nghĩa quân – dân vệ buộc giẻ trắng lên đầu súng lũ lượt đem nạp
cho Quân giải phóng.
Ngày
19.3, quân ta phát triển tảo trừ truy quét địch, khắp vùng súng vẫn còn nổ bẹp xẹp
chưa im hẳn.
Tại Chỉ
huy sở, đơn vị chúng tôi chốt bên con suối nhỏ ở cánh rừng phía đông cách quận
độ 1 km, lúc trưa, Trình, Phúc, Nhàn trinh sát phát hiện có địch thọc vô. Anh
em mình lập tức xách súng rượt. Tiếng hô: Đứng lại! Đứng lại! Vang vọng núi rừng,
AK nổ giòn. Chừng 15 phút sau lính ta lôi về một chiếc ba lô ngụy, báo cáo là
tên đó bị trúng đạn ở bìa rừng. Trong ba lô có một quả đu đủ xanh, một sổ tử
vi, một lá thư hắn viết gửi cho vợ có đoạn viết : “Em hãy gửi gấp cho anh hai
mươi ngàn đồng để xin thượng cấp ở lại hậu cứ khỏi phải hành quân”. Tên lính
này (tôi quên tên) cấp bậc binh nhất, y tá quê ở Tam Quan – Bình Định. Tôi phán
đoán bọn này hoảng loạn, chưa dám mò đi, chắc còn quanh quẩn ẩn nấp đâu đây.
Tôi cho anh em đi hai mũi theo hình chữ V, dõi dấu chúng chạy lướt cỏ tranh khô
truy lùng. Đi với tôi là Trình lăm lăm cây AK chĩa nòng phía trước sẵn sàng.
Bên lùm le trụi lá, dưới lòng con suối cạn cách chúng tôi khoảng 10 mét, bỗng
tên ngụy vụt đứng lên như trời trồng, bù xù chiếc áo khoác ngoài, 2 tay giơ cao,
run như cầy sấy, mặt tái mét, miệng lập cập: “Xin hàng đồng chí! Xin hàng đồng
chí!…” Tôi buồn cười trước sự cầu khẩn van lơn với cách phát ngôn của hắn. Có
lẽ bọn chúng có biết quân ta xưng hô với nhau là đồng chí, vì thế đến lúc khốn
quẫn sa vào Quân giải phóng mới kêu van như vậy.
Tôi
tiến hành ngay việc điều tra khai thác, tên tù binh ngoan ngoãn vanh vách đáp
lời.
- Súng
đâu?
- Dạ
thưa thượng cấp, hoảng quá tôi vất đi rồi. (Vì hắn thấy tôi đeo K54)
- Ở đâu
chạy về đây?
- Dạ, ở
sân bay Hòa Bình.
- Có
bao nhiêu đứa?
- Dạ,
có 12 đứa.
- Có
biết tên chúng nó không?
- Dạ,
không. Chúng nó ở các đơn vị chạy theo tôi.
- Chúng
nó có biết tên mày không?
- Dạ,
có.
- Vì
sao?
- Dạ,
tôi là đại úy ạ.
Rút
trong túi áo lấy ra thẻ căn cước quân nhân, khép nép hai tay, hắn đưa cho tôi.
Thẻ căn cước quân nhân của hắn ghi: “Họ tên Đào Tiến Viện, sinh năm 1940, đại úy,
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 53, nguyên quán Yên Dũng – Bắc Giang”.
Tôi
lướt đọc thẻ căn cước vừa nhìn hắn. Dường như linh cảm được điều nghi vấn của tôi
về sự thăng tiến của hắn, Viện phân bua: Dạ, sau lần bị thương ở Tân Cảnh, Đắk
Tô, Kon Tum tôi không còn sức chiến đấu nên họ đưa về làm ở Phòng nhì trung
đoàn. Vừa nói, Viện vừa vén áo để phơi cái bụng trắng hếu có một vết sẹo bên
mạng sườn dài cỡ nửa gang tay, có ý minh chứng lời khai sự thật. Tôi đanh giọng:
“Mày khoe có chiến tích với quân lực Việt Nam cộng hòa hả”. Vội thả vạt áo,
Viện len lén: “Không ạ!”.
- Định
chạy đi đâu? - Tôi hất hàm hỏi.
Viện
đáp: Về Đà Lạt, gia đình, vợ con ở bên ấy ạ.
Chúng
tôi cho ăn cơm uống nước, hắn ngồi nhai nghiến ngấu, nốc nước ừng ực ngon lành.
Sau đó, lính ta dẫn Viện đi gọi những tên còn lại. Hắn gào oang oang đến khản
cổ: “Ơi anh em! Tôi là Đại úy Đào Tiến Viện đây, được Quân giải phóng cho ăn
uống, đối xử tử tế, anh em hãy ra với Quân giải phóng”. Qua một thôi một hồi đi
vòng quanh, gọi riết vẫn bặt vô âm tín. Tôi gọi điện báo về sở chỉ huy mặt
trận, rồi bàn giao cho cán bộ binh vận tiền phương dẫn tên đại úy về nơi tập trung
tù hàng binh.
Hai
ngày sau, chúng tôi tóm được một tên trung sĩ, quê Quảng Bình; một tên binh nhất,
dân tộc Stiêng quê tỉnh Sóc Trăng; cả 2 tên trong toán đi với Viện.
Bộ đội
ta truy quét bắt được tên thiếu tá Y Djú Êban - Quận trưởng, quê buôn Lăk
Yang Tao, Lăk. Nguyễn Văn Thường, quê Hải Dương, Quận phó hành chính ra trình diện
Ban quân quản. Huyện Lạc Thiện giải phóng, đi đâu cũng thấy vũ khí địch
vứt vãi, tàn quân nhan nhản phờ phạc. Có tên còn kéo vợ ôm con dại lếch thếch
đói khát đùm túm tiều tụy thảm hại. Bọn họ được bộ đội ta chỉ đường tới gặp Ủy
ban quân quản cấp giấy cho về đoàn tụ với gia đình.
8 giờ
sáng ngày 21.3, đoàn xe của cánh quân chủ lực giương cờ đỏ sao vàng đi từ đồi đá
phía bắc tiến về quận Lạc Thiện gặp bộ đội tỉnh Đắk Lắk trong niềm vui chiến
thắng.
Sáng
ngày 22.3, bộ đội và thanh niên Liên Sơn tổ chức đấu bóng chuyền. Cũng tại đây,
buổi chiều diễn ra cuộc mít tinh lớn của quân và dân ta, có cả những người trước
đây cầm súng làm việc cho chế độ Mỹ ngụy. Trong không khí náo nức tưng bừng,
tràn ngập rừng cờ và biển người phơi phới mừng quê hương giải phóng, chính
quyền thực sự về tay nhân dân. Ngày hội ghi dấu ấn lịch sử kết thúc cuộc kháng
chiến lâu dài gian khổ của quân dân ta ở một huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk thân yêu,
hòa chung niềm vui Xuân 1975 đại thắng, nước non khải hoàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI