“Cồng
chiêng” là dùng để chỉ dàn nhạc thuộc bộ gõ gồm nhiều chiếc chiêng. Không phải
dùng để chỉ từng cá thể chiếc chiêng. Trong thực tế, tùy theo từng vùng miền, từng
dân tộc khác nhau mà người ta gọi “chiêng” bằng nhiều tên khác nhau. Người Êđê, M’nông, Ba Na gọi
chiêng là “chinh” hay “ching”, người Mường gọi các loại chiêng nhỏ là “cồng”,
loại có kích cỡ trung bình - đường kính khoảng từ 50 đến 65cm là
“chiêng”, loại từ 70cm đến 100cm - có từ 2 đến 3 núm là “dàm” (dám)...
Tùy tên gọi
của các dân tộc khác nhau, nhưng căn cứ vào hình dáng bên ngoài và âm thanh phát
ra khi cùng ta gõ vào, đa số chúng đều đồng âm và có hình dạng đồng dạng như
nhau (trừ một số chiêng bằng không có núm), do đó các nhạc cụ này được gọi
chung bằng tiếng Việt (Kinh) là chiêng (loại có núm gọi là chiêng núm, loại
không có núm gọi là chiêng bằng). Về kích cỡ cũng có nhiều loại khác nhau, loại
nhỏ có đường kính khoảng 18 cm, loại lớn đường kính có khi đến một mét và có đến
3 núm (mỗi núm gõ vào chúng sẽ phát ra một âm thanh khác nhau). Cồng chiêng được
đúc bằng đồng, để lâu sẽ ngả thành màu đen, chỗ thường gõ vào cho phát ra âm
thanh sẽ lộ ra màu đồng thau (hợp kim đồng) vàng bóng. Với loại chiêng quý - chỗ
núm chiêng được làm bằng hợp kim đồng pha vàng, khi sử dụng một thời gian, núm
chiêng ngoài màu vàng bóng ra còn có nhiều tia ánh lên như tia mặt trời trông rất
đẹp.
Qua khảo sát
nhiều vùng miền, chúng ta thấy rằng, không chỉ các dân tộc ở Tây Nguyên như
Êđê, M’nông, Ba Na, Sê Đăng, Mạ… hay các dân tộc như Mường, Thái, Tày ở các tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình,
Sơn La, Lai Châu, Phú Thọ, Hà Nội... mới có cồng chiêng mà một số các dân tộc
khác ở các nước châu Á như Trung Quốc, Mông Cổ, Ấn Độ, Lào, Thái Lan,
Campuchia, Malayxia... cũng sử dụng cồng chiêng. Nhưng sử dụng cồng chiêng để
làm nghi lễ hoặc nhạc cụ phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày, đạt đến độ trở
thành bản sắc văn hóa và văn hóa cồng chiêng đã ăn sâu vào tâm hồn, từ đó trở
thành một phần máu thịt của con người thì chỉ có ở Việt nam chúng ta mà thôi.
Điển hình cho điều đó là chúng ta đã có Văn hóa Cồng chiêng Mường ở Thanh
hóa, Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn La, Hà Nội... Đặc biệt là Không gian văn hóa Cồng chiêng
Tây Nguyên đã được cả thế giới biết đến.
Ở những miền
đất ấy, khi có một em bé chào đời là lập tức có tiếng chiêng ngân lên như báo
cho buôn gần buôn xa và núi rừng cỏ cây biết để chung vui cùng cha mẹ, ông bà và họ hàng của bé. Khi
bé dược làm lễ “Thổi tai” hay được “Cúng vía đặt tên”, tiếng chiêng ngân lên
báo cho buôn gần, bản xa và cả núi rừng, thần linh biết từ nay đã chính thức có
thêm một con người có tên, có tuổi sống giữa cộng đồng. Ngày tháng trôi đi, đứa
trẻ lớn lên thành chàng trai, cô gái, ngày dựng vợ gả chồng, trong niềm vui háo
hức của cha mẹ, họ hàng, làng xóm, tiếng cồng chiêng lại tấu lên khúc nhạc rộn
rã mừng hạnh phúc, giục mầm xanh mau
chóng sinh sôi. Anh trí thức Êđê,
Ba Na, M’nông tài giỏi, học cao đỗ đạt, ông Lang cun Mường được thăng quan tiến
chức, anh sĩ quan người Thái được thăng cấp hàm... ngày liên hoan, các giàn
chiêng núm chiêng bằng, cồng năm cồng bảy rồi cồng giàn lại tấu lên những khúc
nhạc rộn ràng ngân xa bảy núi chín khe, báo cho buôn gần, bản xa biết để chung
vui, chung niềm tự hào rằng quê mình có người tài giỏi đã làm rạng danh cho
buôn làng. Ở vùng Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn Tây, Phú Thọ... trong những ngày vui
xuân đón Tết, từng đoàn trai gái Mường lại theo các nghệ nhân đi hát sắc bùa đến
hát chúc Tết các gia đình trong bản trong mường,
làm cho không khí ngày xuân đã xuân rồi lại thêm xuân hơn nữa.
Trong cộng đồng
người Mường, khi có người “trăm tuổi về già/ hóa tiên hóa rồng/ về chầu ông chầu
tổ”, tức thì từng hồi cồng trống tấu lên từng nhịp vang vang cho “thấu thiên
đình” và cũng là để báo cho anh em, họ hàng làng xóm gần xa biết hãy mau mau tập
trung đến nhà có người vừa quá cố để
cùng nhau “tu phúc tu hiếu” theo
cái lẽ của người Mường - và cả dân tộc Việt - đó là “Lúc sống là người một nhà/
khi chết làm ma cả làng”. Đêm ấy trong buổi tang lễ, tiếng trống lại tấu lên từng
hồi… thùng… thùng… bôông... bôông... nghe như mây trôi nước chảy, tiễn đưa vong
hồn người quá cố đi về cõi vĩnh hằng. Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên cũng
vậy, trong lễ bỏ mả thiếu thứ gì thì thiếu nhưng nhất thiết không thể thiếu được giàn cồng
chiêng, bởi vì tiếng chiêng sẽ là khúc nhạc linh thiêng tiễn đưa linh hồn người
quá cố đến với một cuộc đời khác theo quan niệm “sự tận cùng của cái này lại là
sự khởi đầu cho cái khác sinh ra”.
Cồng chiêng
gắn bó với con người là thế, vậy cồng chiêng được ra đời vào thời kỳ nào? Trên hoa văn trống đồng của
thời kỳ Văn hóa Đông Sơn chúng ta không thấy hình ảnh người đánh chiêng - một số
người xem đã lầm lẫn hình ảnh người đánh trống và người thủy binh bắn cung
thành người đánh chiêng nhưng nếu xem cho kỹ thì không phải. Lần giở những
trang sử đã nhuốm bụi thời gian chúng ta thấy năm 39 sau công nguyên, nước
ta lúc bấy giờ nằm dưới ách đô hộ của nhà Đông Hán, vua Quang Vũ (nhà Hán)
sai Tô Định sang làm Thái thú đất Giao Chỉ (nước Âu Lạc của ta bị nhà Hán đổi
thành quận Giao Chỉ từ năm 111 trước Công nguyên). Thái thú Tô Định vô cùng tàn
bạo tham lam, do đó gánh nặng thuế khóa luôn đè lên vai người dân Giao Chỉ.
Chưa hết, Tô Định còn bắt dân ta vào rừng bẫy thú quý,
xuống biển mò ngọc trai, đồi mồi nạp cho y. Khắp Giao Chỉ quằn quại trong cảnh
lầm than khổ ải. Bấy giờ có con trai Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách kết hôn với
Trưng Trắc là con gái Lạc tướng Mê Linh. Bên ngoài là cuộc hôn nhân giữa con trai
con gái của hai nhà Lạc tướng, nhưng bên trong là sự liên kết giữa hai vùng đất
lớn để chuẩn bị khởi nghĩa chống giặc. Biết được ý định đó, Tô Định liền
đem đại binh đột ngột kéo về Chu Diên bắt giết Thi Sách, hòng đánh phủ đầu, phá
tan cuộc khởi nghĩa. Tin dữ từ Chu Diên đưa tới khiến Trưng Trắc vô cùng đau đớn
và lòng giận quân giặc bốc lên ngùn ngụt. Bà cùng với em là Trưng Nhị ra lệnh “…Nổi
trống đồng họp binh quyết trả thù cho chồng và giành lại giang sơn họ Hùng,
rửa nhục cho nước. Nghe tiếng trống đồng thiêng liêng nổi lên giục giã, “ba hồi
chín tiếng một” dân Mê Linh cầm cung nỏ, khiên mộc giáo lao, gươm
đồng hai lưỡi cầm tay cuồn cuộn đổ về “nhà làng”. Trên bành voi, hai nữ chủ tướng mặc áo
giáp vàng tóc cài trâm bạc rực rỡ, tay cầm gươm dài nhọn hoắt…”. Đọc đoạn sử ký
trên, chúng ta không khỏi thắc mắc, tại sao trong cuộc khởi nghĩa chỉ có
tiếng trống đồng mà không có tiếng cồng? Một viên tiểu tướng của Tô Định thời đó, sau
khi chạy thoát về Trung Quốc đã có bài thơ, trong đó có câu: “Giao Chỉ vang lên
tiếng trống đồng/ quân tướng Bắc phương đầu tóc bạc…” (ý nói lo sợ đến
bạc tóc). Đành rằng đó là hiệu lệnh họp quân, nhưng kể cả sau này khi “…Một trận quyết
chiến tối sầm cả trời đất giữa hai mươi vạn quân của Phục Ba Mã Viện (nhà
Hán) với dân binh các làng chạ do Trưng Vương thống lĩnh diễn ra ở Lãng Bạc (từ
Đông Triều - Quảng Ninh đến Yên Phong - Bắc Ninh ngày nay). Tiếng
trống đồng vang lên giục giã, như có khí thiêng sông núi dồn phát trong mình, quân Hai Bà
bắn tên rồi dũng mãnh xông vào quân giặc mà đâm mà chém.
Nhưng Mã Viện là tên tướng già thiện chiến, hắn cho quân đóng trên các triền cao để chiếm lợi
thế, hơn nữa quân của Mã Viện là quân chinh chiến nhà nghề nên
thiện chiến hơn các dân binh của ta, hơn nữa chúng lại được trang bị toàn gươm sắt giáo dài
tối tân hơn dân binh của ta rất nhiều. Thấy đánh ở Lãng Bạc lầy
lội bị bất lợi, Trưng Vương ra lệnh khua trống đồng thu quân lui về Cấm Khê (Thạch Thất-Quốc
Oai-Hà Tây ngày nay) để tiếp tục chống giặc…” Đọc đến đây ta có thể nghĩ rằng ở thời Hai Bà
Trưng, cồng chiêng chưa được ra đời. Song về cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị
Trinh, sử cũ gọi Bà là “Triệu Ẩu”, lại viết: “Bà là người con gái có sức khỏe
và võ nghệ cao cường, tài nghệ thu phục được cả bạch tượng (voi trắng). Trong hội
thi võ, bà ngồi trên mình ngựa phi nước đại, chưa hết một hồi cồng hiệu đã bắn
được ba phát tên và cả ba đã trúng vào giữa bia cách
xa một trăm bước chân…”. Năm 19 tuổi bà cùng anh là Triệu Quốc Đạt hợp nghĩa quân,lập căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc - Thanh hóa)
để chống giặc Đông Ngô (năm 248). Bà dùng cồng làm hiệu lệnh luyện quân tập võ.
Sử cũ chép: “Bà dóng lên ba tiếng cồng, quân sĩ múa giáo đồng lao tới, gươm
đồng vung lên, đường gươm mũi giáo kín kẽ y như hùm beo…”. Cho tới ngày nay,
vùng dân gian Thanh Hóa còn lưu truyền bài ca: “Ru con con ngủ cho lành/ để
mẹ gánh nước rửa bành ông voi/ muốn coi lên núi mà coi/ coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh
cồng…” hoặc câu:
“Lệnh ông không bằng cồng bà/ lệnh ông để trong nhà/ cồng bà đưa lên núi”.
Câu này ngoài ý nói Bà Triệu có uy tín với quân sĩ hơn anh trai của bà là
ông Triệu Quốc Đạt, còn có thêm một nghĩa khác là ông Triệu Quốc Đạt dùng trống đồng
làm hiệu lệnh, vì trống to, nặng nên phải để ở nhà, Bà Triệu dùng cồng làm hiệu
lệnh vì nhỏ nhẹ, gọn gàng nên cơ động hơn, do vậy mà bà đưa được cồng vào núi,
nơi luyện tập quân sĩ. Mỗi lần xung trận, Bà Triệu mình mặc áo giáp vàng,
chân đi guốc ngà, cưỡi voi đi đầu oai phong lẫm liệt. Tiếng cồng lệnh vang lên,
quân của bà ào ào xông tới, quân Ngô kinh hồn bạt vía đến nỗi lũ tướng giặc phải
thốt lên rằng: “hoành qua đương hổ dị, đối địch Vương Bà nan” (múa giáo đánh
hổ dễ, đối địch Vua Bà rất nguy nan). Một viên quan nhà Ngô đã từng sống ở
nước ta thời bấy giờ cũng đã viết: “Ở Giao Châu, mỗi khi lâm trận, quân sĩ mới
nghe tiếng cồng đã run sợ hồn bay phách lạc, không còn nhuệ khí đánh trận nữa,
nên vừa gặp quân Man (ý nói quân Bà Triệu) quân nhà đã bỏ chạy loạn cả lên…”. Sử
sách nhà Ngô thời ấy cũng chép rằng: “Toàn thể Giao Châu chấn động, quân sĩ
(nhà Ngô) mới nghe tiếng cồng đã hoảng sợ, quan Thứ sử bỏ trốn mất tích…” Từ
các dữ liệu lịch sử trên, cho phép chúng ta có thể suy luận rằng: Vào khoảng
cuối thế kỷ thứ 2 đầu thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, cồng chiêng mới được sử dụng.
Vậy cồng
chiêng có xuất xứ từ đâu? Một lần nữa chúng ta lại giở những trang thư tịch cổ
và thấy rằng nền văn minh Hoàng Hà bước sang thời kỳ đồ sắt sớm hơn nền văn minh lúa nước sông Hồng,
sông Mã. Tuy ở thời Hùng Vương, đất Âu Lạc đã có công cụ, vũ khí bằng sắt (truyền
thuyết roi sắt, ngựa sắt trong truyện Thánh Gióng là một ví dụ), nước ta đã có sắt nhưng
chưa nhiều và đa số sắt ở nước ta thời ấy là do các thương nhân Trung Quốc đưa sang, do đó sau
khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, Mã Viện đã cho dựng cột đồng
có dòng chữ: “Đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt” (cột đồng đổ, Giao Chỉ bị diệt
vong). Mặt khác các triều đình phương Bắc cấm lái buôn không được đưa sắt sang
Giao Chỉ để bán. Không chịu khuất phục, các nghệ nhân con Hồng cháu Lạc đã sáng tạo
để pha chế kim khí bằng đồng sẵn có của mình để chế tác ra các công
cụ, vũ khí đồng tốt không kém gì đồ sắt của Trung Quốc. Đặc biệt là các nhạc cụ
bằng đồng của ta như chuông, trống đồng, cồng chiêng của nước ta đúc ra đẹp và
khi đánh lên có tiếng ngân vang xa và trong trẻo, hoặc trầm ấm hơn các nhạc cụ đồng
của Trung Quốc rất nhiều. Sử cũ chép rằng: Tháng Hai năm Giáp tý (544) Lý Bí lên ngôi xưng
là Lý Nam Đế (Tiền Lý) đặt tên nước là Vạn Xuân, vua cho xây một ngôi chùa lớn ở
phường Vân Hòa (Yên Phụ ngày nay), lấy tên là Chùa Khai Quốc. Trong
chùa có một quả chuông tuy không lớn lắm nhưng khi dóng lên, tiếng chuông vừa ngân
nga trong trẻo lại vừa ấm đậm bao dung như lòng Phật, hơn hẳn “đại chung”
(chuông lớn) trong các đại tự của Trung Quốc. Vua nhà Lương đã nhiều lần cho
người đóng giả lái buôn sang tìm cách lấy cắp bí mật về kỹ thuật pha chế
đồng (hợp kim đồng bạc, vàng để đúc thành đồng điếu) của nước ta mà không tài
chi lấy được. Không chỉ có thế, các sử cũ còn ghi chép các sự kiện suốt từ thế
kỷ thứ 6 cho đến thời kỳ Đinh - Lê, Trung Quốc luôn cho người sang nước ta dùng
mọi thủ đoạn để mua chuộc, lấy trộm bí mật kỹ thuật pha chế và đúc đồng của nước
ta nhưng vẫn không thành công. Tuy nhiên so với các nước khác trong khu vực (trừ
nước ta) kỹ thuật đúc đồng của Trung Quốc vẫn hơn hẳn các nước khác, kể cả Ấn Độ
và Thái Lan. Đến thế kỷ thứ 14, kỹ thuật pháo binh ra đời và đạt đến điểm cao của
khoa học quân sự thời bấy giờ về vũ khí thuốc nổ. Tuy Trung Quốc là nước có kỹ
thuật cao về tìm và chế ra thuốc súng nhưng kỹ thuật
đúc đồng làm nòng đại bác của Trung Quốc lại kém hơn kỹ thuật của nước ta, do
đó súng “thần cơ” do Hồ Nguyên Trừng nước ta chế tạo có tầm bắn xa và sức công
phá mạnh hơn hỏa pháo của quân Minh rất nhiều. Ngày nay, để tìm hiểu kỹ thuật
đúc đồng, nhằm khẳng định xuất xứ của cồng chiêng, chúng ta hãy làm một
chuyến du lịch đến các vùng của đồng bào có sử dụng cồng chiêng ở Trung Quốc,
Lào, Thái Lan, Cămpuchia và cả vùng Tây Nguyên của Việt Nam, trực tiếp thử nghiệm
“mắt thấy, tai nghe, tay sờ” vào những chiếc chiêng nhỏ chiêng to ở những nơi
đó, ta sẽ được nghe đa số cồng chiêng ở những nơi đó khi đánh lên chúng phát
ra cường độ âm thanh không cao, thanh sắc không trong, không ấm, đặc biệt là
không có độ ngân, nếu hỏi ta sẽ được bà con người Choang hay Thái Hoa -Trung Quốc
- đó là chiêng đúc do học được kỹ thuật của người Hán hoặc mua lại chiêng của
người Hán hoặc người Hoa mà có. Ở Tây Nguyên ta sẽ được những người già cho biết: Người Tây Nguyên
không đúc ra được chiêng mà phải mua của người Kinh ở Huế, Đà Nẵng hoặc Phú Yên mang
lên bán, tuy vậy chiêng của người Kinh ở miền Trung khi đánh lên, tiếng không được
trong và không ngân cao là mấy. Muốn có chiêng quý, màu đen đẹp, khi đánh lên tiếng
chiêng trong và ấm, tiếng ngân dài và vang xa, phải mua ở Lào (do đó những chiếc
chiêng quý mới có tên là Ching Lao). Đến nước Lào ta sẽ được bà con các bộ tộc
Lào cho biết, họ cũng không tự đúc được ra chiêng, mà họ phải mua của người
Kinh (Cân Keo) hoặc của người Mường (Cân Mọi) ở Việt Nam mang sang đổi hàng
hoặc bán. Trở về miền Bắc Việt Nam, đến đất Mường, xách lên tay chiếc chiêng
năm, chiêng bảy hoặc những chiếc Dàm có ba núm (lưu ý là chiêng ba
núm ở đất Mường hiện nay còn lại rất ít, chỉ có ở vùng Hòa Bình mới còn). Khi
chúng ta đánh những chiếc chiêng - bất kể là to hay nhỏ - ta sẽ được nghe tiếng
chiêng ở xứ Mường, xứ Thái miền Bắc Việt Nam có tiếng ngân cao, trong trẻo nhưng ấm
áp và vang xa. Đặc biệt ở những vùng này có những chiếc chiêng năm (tiếng Mường
gọi là côồng răm) khi ta dùng tay xoa vào núm chiêng chừng 5 đến 7 phút, lấy
tay ra tự nhiên chiêng phát ra tiếng kêu vo vo rất êm tai - điều đặc biệt này
chỉ có chiêng ở xứ này mới có. Nhưng khi hỏi chiêng do đâu mà có, sẽ được các cụ
già người Mường cho biết rằng: “…Người Mường không biết rèn sắt, không biết đúc
chiêng, muốn có chiêng phải mua của người Kinh ở Phủ Thiệu (Thiệu Hóa - Thanh
Hóa) hay phải ra mãi Đông Cổ Kẻ Chợ mới mua được…”. Đến
đây thì chúng ta đã rõ và từ đó cho phép chúng ta có thể suy luận ra rằng: Cồng
chiêng có nguồn gốc xuất xứ từ các làng nghề đúc đồng cổ truyền ở vùng châu thổ
sông Hồng và sông Mã Việt Nam và cồng chiêng có thể được ra đời vào khoảng đầu
thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, từ đó cồng chiêng và kỹ thuật đúc cồng chiêng mới
lan tỏa đi các miền đất khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI