Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

GIỚI THIỆU CHƯ YANG SIN SỐ 286 - tác giả NGUYỄN HỮU HỢP





BÀI THƠ NHỎ CHỨA TÂM HỒN LỚN
(Nhân đọc lại bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh)



Nhớ lại chuyện của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh kể cho chúng tôi khi thầy dạy chuyên đề “Phương pháp tìm hiểu thơ văn Hồ Chí Minh” năm 1985, hồi tôi đang học Cao học tại trường ĐHSPVinh. Câu chuyện đại khái: Năm 1960, nhân kỉ niệm 70 năm sinh nhật Bác Hồ, Viện Văn học quyết định xuất bản tập thơ Nhật kí trong tù của Người. Bấy giờ giáo sư Đặng Thai Mai là viện trưởng. Trước khi xuất bản tập thơ, giáo sư Đặng Thai Mai có đến gặp Bác để xin “ý kiến” của tác giả. Bác nói: Công việc chuyên môn các chú cứ làm theo kế hoạch, nhưng Bác nói thật: Đó là tập nhật kí của Bác chứ thơ phú gì đâu! Còn nếu vì Bác là Chủ tịch nước mà xuất bản thì không nên. Với lại, Bác với chú là “đồng hương” càng phải khách quan thận trọng… Giáo sư Mai nói: Thưa Bác trong tập “nhật kí” có rất nhiều chất thơ – Bác đã vô tình “đánh rơi” nhiều bài thơ trong tập nhật kí… Và thế là tập thơ Nhật kí trong tù của Bác được dịch và xuất bản. Câu chuyện về sự ra đời tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là một bài học về đức tính khiêm tốn tự trọng, trong sáng cho tất cả chúng ta. Bây giờ  xin được nói sang những bài học lớn, sâu sắc của tâm hồn Hồ Chí Minh qua bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Người.
Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc được Bác Hồ viết vào đầu năm 1947 tại chiến khu Việt Bắc –thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ thiếu thốn. Nói như vậy để thấy được nghị lực và tinh thần lạc quan cách mạng đến độ nào của Người. Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật như sau:
Cảnh rừng Việt bắc thật là hay,
Vượn hót  chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén  rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ  với xuân này.
Trước hết ta thấy cách nhập đề của Bác Hồ rất tự nhiên đến mức “nôm na” tưởng không giản dị hơn: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay”. Bác không chọn “vui” mà chọn “hay” rất đắc địa. Vì trong “hay” đã có “vui” rồi. Với lại từ “hay” có cái gì đó là lạ thế nào đó. Câu tiếp theo: “Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”. Thành ngữ Việt Nam có câu “chim kêu vượn hú”. Câu thơ sau đã như giải thích cho việc dùng từ “hay” vì là thông thường thì “chim kêu vượn hú” hoặc “vượn hú chim kêu”. Bác Hồ sáng tạo lại thành ngữ Việt cho phù hợp với không gian Việt Bắc bấy giờ đã thành “thủ đô kháng chiến” rất đông vui, rộn ràng nên mới có cảnh kì thú “Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”. Thơ Đường luật ưa sự đài các, trang trọng, thích bút pháp ước lệ, tượng trưng, ở đây Hồ Chí Minh đã “dân dã hóa”, “Việt hóa” thể thơ này bằng bút pháp tả thực rất mộc mạc.
Sang hai câu thực, Người viết tiếp:
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay.
Bút pháp tả thực lại được Bác Hồ sử dụng rất tinh tế. Lương thực chủ yếu ở chiến khu Việt Bắc là ngô cũng là lương thực chính của đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Câu thơ của Bác gợi nhớ đến hình ảnh bà mẹ Việt Bắc nặng tình với cán bộ trong thơ Tố Hữu: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Thế đấy. Đến cả lãnh tụ còn ăn ngô. Nên khách quý đến nhà “thì  mời ngô nếp nướng” – rất trân trọng và “bình đẳng”. Cuộc sống bấy giờ của Bác Hồ và cán bộ ở chiến khu Việt Bắc quá khó khăn đến mức cán bộ, bộ đội nhiều khi ăn quả trám thay cơm ăn măng thay rau, nên Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc đã nhắc nhủ cán bộ về xuôi “Trám bùi để rụng, măng mai để già” hoặc “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Thành ra, lâu lâu cán bộ, bộ đội cũng “cải thiện” bằng những cuộc săn thú rừng. Nên mới có câu thơ hóm hỉnh “Săn về thường chén thịt rừng quay”. Sự tếu táo là ở từ “chén”. Nghe nó dân dã, mộc mạc làm sao! Người ta thường nói “chén tạc chén thù” hoặc “chén chú chén anh” để diễn tả những cuộc vui say khi gặp gỡ. Kháng chiến gian khổ là thế, cuộc sống thiếu thốn vất vã là vậy mà Người vẫn vui say, đủ thấy Bác Hồ yêu đời lạc quan đến chừng nào! Cũng có thể hiểu hai hình ảnh “ngô nếp nướng” và “thịt rừng quay” là cách nói mang ý nghĩa tượng trưng cho một vài bữa cơm có thịt sung túc vui vẻ ở chiến khu Việt Bắc gian khổ thiếu thốn chăng?
Đến  hai câu luận Bác viết tiếp:
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
“Đặc sản” của núi rừng Việt Bắc không chỉ có “ngô nếp nướng, thịt rừng quay” mà còn nhiều sản phẩm khác. Đó là “non xanh, nước biếc” là “rượu ngọt, chè tươi”. Phép đối của thơ Đường làm cho cảnh vật chẳng khác gì chốn “bồng lai tiên cảnh”. Người ta quên mất Việt Bắc là xứ “rừng thiêng nước độc” là chốn “vượn hú chim kêu” hoang sơ rùng rợn. Ai lạc vào chốn ấy không cưỡng lại lòng mình, không làm chủ được bản thân, cứ “tha hồ dạo – mặc sức say”. Bút pháp trữ tình  kết hợp với cảm hứng lãng mạn khiến câu thơ bồng bềnh, ngây ngất… Tự nhiên ta nhớ đến những câu thơ tuyệt bút của Người trong bài thơ Cảnh khuya cũng tả cảnh ở Việt Bắc:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Hoặc:
Xem sách chim rừng vào cửa đậu,
Phê văn hoa núi ghé nghiên soi.
(Tặng Bùi Bằng Đoàn)
Trở lại nội dung hai câu luận. Ở chiến khu Việt Bắc rõ ràng “non xanh nước biếc” thì có thừa. Nhưng “rượu ngọt, chè tươi” thì làm gì có sẵn, làm gì có nhiều để mà “mặc sức say”? Rõ ràng là lối nói phóng đại, ngoa ngữ bông đùa cho vui để quên đi những thiếu thốn, khó khăn thường nhật trong đời sống, để vui sống trong khó khăn như kiểu các nhà Nho ngày xưa vui cảnh thanh bần trong “Hàn Nho phong vị phú” của Cao Bá Quát. Đây chính là vẻ đẹp của khí tiết thanh cao “một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác”. Đến đây ta đã  hình dung ra chân dung nhà thơ –chiến sĩ Hồ Chí Minh ngây ngất trong “bồng lai –tiên cảnh” của Việt Bắc nhưng cũng rất thực tế, rất đời thường. Hồ Chí Minh là vậy đấy!
Hai câu kết, Người khẳng định :
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xưa, hạc cũ, với xuân này.
Có người nói Bác là nhà tiên tri, là người dự báo tài tình. Tôi nghĩ thêm: Bác của chúng ta là người nắm vững quy luật vận động của tạo vật, của thời thế. Cho nên ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ khó khăn là vậy, mà Người đã cầm chắc thắng lợi “Kháng chiến thành công ta trở lại”. Câu thơ mở ra nhiều suy tưởng: Bác Hồ trong bản chất luôn lạc quan tin tưởng ở tương lai tốt đẹp, kiểu như “Hết mưa là nắng hửng lên thôi/ Hết khổ là vui vốn lẽ đời”. Bác Hồ là con người trọng tình nghĩa thủy chung “ta trở lại” như người Việt Nam vẫn nhắc nhủ “Đêm nằm hơn năm ở” “Uống nước nhớ nguồn”. Bởi chiến khu Việt Bắc với Bác, với dân tộc Việt Nam là “Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”; là nơi nuôi dưỡng cưu mang Người: “Mười lăm năm ấy ai quên” – từ mùa xuân 1941 đến 1954, với bao địa danh đi vào lịch sử: Hang Pắc Bó, núi Các Mác, suối Lê-nin, cùng cháo bẹ rau măng, bàn đá chông chênh, những cơn sốt rét rừng…
Câu thơ cuối: “Trăng xưa, hạc cũ, với xuân này” cũng gợi nhiều liên tưởng. Trước hết nó gợi ra cảnh đẹp “bồng lai tiên cảnh” của núi rừng Việt Bắc bởi nghệ thuật đối ngẫu khéo léo “trăng xưa - hạc cũ - xuân này”. Mặt khác, Bác hàm ý: Kháng chiến thành công Người nhất định sẽ quay lại Việt Bắc không phải với tư cách lãnh tụ kháng chiến, mà là một thi nhân để tận hưởng thật mãn nguyện cảnh đẹp thơ mộng của chốn lâm tuyền, để làm thơ về những người bạn thân thiết một thuở như cố nhân “trăng xưa - hạc cũ” ở chốn tiên cảnh – bồng lai. Vậy là chiến khu Việt Bắc sau ngày kháng chiến thắng lợi sẽ đón những người bạn tri âm  trở lại – trong đó có thi nhân Hồ Chí Minh thời chiến khu thường hẹn hò say đắm với người bạn trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ”, hoặc “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Xưa  trăng đã là bạn của “thi tiên” Lý Bạch “Ngẩng đầu ngắm trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương”, của Ức Trai tiên sinh “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” hoặc “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi/ Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu”. Hạc - loài chim đứng đầu trong họ lông vũ, được gọi là “nhất phẩm điểu” – là loài chim đẹp biểu tượng cho sự may mắn và trường thọ” –  mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực xuất hiện nhiều trong thơ cổ đặc biệt là ở Trung Quốc. Bài thơ nổi tiếng “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu có hai câu mở đầu:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ 
(Bản dịch Tản Đà )
Bác Hồ ôm ấp  dự định  là  kháng chiến chống Pháp thành công, Người sẽ trở lại Việt Bắc để vui với cảnh xuân, để thả hồn với “trăng xưa – hạc cũ” mà bấy lâu vì bận việc quân, việc nước Bác còn “mắc nợ”: “Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”! Qua đó đủ thấy Bác ân tình tri âm với cảnh vật thiên nhiên Việt Bắc đến nhường nào.   
Đọc bài thơ chúng ta nhận ra nhiều vẻ đẹp trong tâm hồn Bác. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn vĩ đại giàu tình yêu thương: Yêu thiên nhiên tạo vật. Đó là một con người có lối sống giản dị mộc mạc, tự tại, chan hòa với thiên nhiên. Đó còn là con người yêu đời lạc quan cách mạng, luôn vượt lên hoàn cảnh để vui sống để “di dưỡng tinh thần”. Đó còn là con người rất mực trong sáng, thủy chung, luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng của kháng chiến. Ở Bác, tâm hồn người chiến sĩ hòa quyện trong tâm hồn người nghệ sỹ đã làm nên cốt cách, phong thái Hồ Chí Minh. Nghệ thuật vào bài tự nhiên giản dị, cách sử dụng từ ngữ mộc mạc mà sáng tạo, hình tượng thơ vừa dân dã gần gũi vừa trang trọng ước lệ, sự hài hòa thống nhất giữa bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, cổ điển mà rất hiên đại, đã tạo ra sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú cho từ ngữ, hình ảnh bài thơ. Có thể khẳng định “Cảnh rừng Việt Bắc” của Hồ Chí Minh sẽ bất tử như Bác trong tâm hồn chúng ta.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI