CẢM VỀ THƠ HÀN MẶC TỬ
Pôn Valeri ngậm ngùi mà thốt lên rằng: “Cái đẹp là cái
làm ta tuyệt vọng” và có lẽ thơ Hàn Mặc Tử là định nghĩa đáng sợ về cái vẻ đẹp
ấy. Trong nỗi niềm tuyệt vọng, u mê nơi thôn Vĩ, thấp thoáng ảo giác về một thực
tại xa vời, một hiện tại sao quá đỗi ngắn ngủi, kiếp người quá phù du! Tất cả
những cảm giác này thấm vào điệu thơ khiến âm điệu trở nên da diết, ám ảnh lòng
người…
Giải mã hồn thơ lạ nhất, bí ẩn nhất và cũng đầy bi ai của
làng Thơ mới, ta rất cần một hướng đi đúng
đắn mà theo Chu Văn Sơn đó chính là “sơ đồ chỉ dẫn, một thứ chìa khóa then
chốt bao trùm mạch tình ai oán”. Và có lẽ, không mấy xa lạ, chìa khóa ấy là
kết tinh của một “tình yêu tuyệt vọng”, một lối “thơ điên” và “lớp trầm tích những
biểu tượng”. Nếu “tình yêu tuyệt vọng” quyết định điệu nhạc tâm hồn, thì
lối thơ điên chi phối khung cảnh và cấu tứ không gian... Trong lúc ấy “lớp trầm
tích biểu tượng” đan cài dệt nên hệ thống ngôn từ, hình tượng đặc sắc, tạo nên
cái không khí ám ảnh, ma mị. Nhưng có lẽ hơn hết, cái ám ảnh lòng ta mãi chẳng
rời chính là chất men tình si của một tâm hồn tuyệt vọng. Tuyệt vọng là khép lại
hi vọng, là chấm dứt, kết thúc trong chán chường, đớn đau vô bờ, thế nhưng tình
yêu vượt xa quy luật ấy, ai bắt ép tình yêu cứ phải oằn mình đớn đau trong mọi
khuôn khổ hà khắc. Đâu phải bất cứ nỗi tuyệt vọng nào cũng đủ sức tàn phá, quật
ngã lòng người, còn đó bao phút si say nâng tình thăng hoa trên địa phận bi ai,
tuyệt vọng…
Sống trong cái dự cảm khôn cùng, khắc khoải về phút giây
chia lìa, Hàn Mặc Tử đẩy mình tới điểm chót cùng của đớn đau để mà cô đơn níu đời,
nuối đời, tiếc tình rồi hối hả chạy đua. Lạ thay! Qua lăng kính não nề của tuyệt
vọng, cảnh sắc lại ánh lên vẻ đẹp ảo diệu. Người xưa có nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thế mà ô hay! Lòng
Hàn Mặc Tử buồn thế, sầu vấn vương mà cảnh lại đẹp như cõi mộng, lộng lẫy,
thanh khiết, trinh nguyên tột cùng. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên bởi càng đẹp thì
lòng người lại càng tuyệt vọng thêm bội phần, càng bi ai cảnh càng rực rỡ. Vậy
mới đáng bàn khi Hàn Mặc Tử đã buông mình phá bỏ quy luật tình cảm ngàn xưa để
hướng về cảm quan mới mẻ, tình và cảnh không còn ở trạng thái tĩnh, chuyển dịch
đồng thuận mà thành ra thế đối lập, mâu thuẫn mà hòa hợp, vô nghĩa lí mà lại hợp
tình… Đó là cái tài của hồn thơ! Điều oái oăm thay là tuyệt vọng, bi ai tự
giờ khắc nào đã trở thành cảm quan, một cách đến với đời riêng có của Hàn Mặc Tử.
Ẩn sâu trong mỗi dòng thơ tươi vui mà cả một nỗi u hoài, có quá lời chăng khi
khẳng định “Đây thôn Vĩ Dạ là lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt
vọng”. Không chỉ dừng lại ở bề mặt, tình tuyệt vọng thâm nhập, can thiệp vào
tầng sâu hơn nữa, tình yêu, nỗi niềm khát khao giao cảm với đời đã hóa thân thành
nỗi mặc cảm sâu xa, chia lìa chạm ngõ. Trước tiên, nó đổ bóng chi phối cách cảm
không gian, dàn dựng nên cấu trúc thơ đầy hứng khởi. Hàn Mặc Tử tuyệt giao với
tất cả, thu mình nơi lãnh địa lạnh giá, tối tăm, thèm lắm chứ thế giới tươi mới
ngoài kia. Tiếc thay! Sợi tơ lòng ngăn cách hai thế giới “trong này” và
“ngoài kia” quá rõ ràng, phân định rạch ròi địa phận tử - sinh, giữa tâm
cảnh và ngoại cảnh… Buồn làm sao khi lấp ló, thoắt ẩn thoắt hiện sau bức rèm ngăn
cách ấy là một “ngoài kia” thanh sắc rộn ràng, một mùa xuân tràn đầy niềm trăng,
ý nhạc, tràn trề nhựa sống, rạo rực ánh ban mai, ấy là nơi cuộc đời bừng tỉnh.
Hãy xem nơi lãnh cung Hàn Mặc Tử thu mình còn gì khác hơn ngoài tâm hồn lẻ loi,
đơn chiếc. “Trong này” buồn lắm, chẳng có mùa đâu, xuân qua, hạ đến, thu về, đông
sang có là chi khi lòng người nhuốm sầu quá đậm. Hàn Mặc Tử yêu trăng, yêu cái
nét “trăng sõng soài trên cành liễu đợi chờ” vậy mà đời ác lắm thay khi
nàng trăng cũng chả thể âu yếm, an ủi chàng. Trăng không có, trăng thuộc về miền
xa, nơi chàng chẳng thể với tới được. Không trăng rồi, ánh sáng cũng không, nhạc
nơi đâu sao chẳng cất lời xua đi cái không gian u mê, tăm tối, mờ mờ nhân ảnh này.
Ôi lãnh cung! Ôi trời sâu, khổ hạnh tràn về…
Thế đó! Trong này, chỉ có thể giao thoa với trăng, với thế
giới lung linh sắc bằng ước vọng thầm kín không biết giãi bày cùng ai, khắc khoải
và xa xăm mãi… Hàn Mặc Tử mơ về Vĩ Dạ, khao khát thêm một lần đặt chân lên bờ đất
thân thương, đồng nghĩa là chàng thèm đời tươi, thèm hương nhụy cuộc sống tràn đầy…
Không gian tương phản rõ nét, không chỉ là mặc cảm về sự sống mà còn là sự bủa
vây của ám ảnh chia lìa đôi ngả…
Mặc cảm chia lìa khiến Hàn Mặc Tử tự lạc mình hóa thân thành
kẻ lữ khách, một “kẻ đứng ngoài”, “kẻ đi ngang qua cuộc đời đẹp tươi”, “kẻ tự
nguyện chia lìa cõi đời”, “kẻ dám kìm lòng rời khỏi cuộc vui”… Kẻ ấy chỉ biết
đứng lặng nhìn cuộc đời qua lăng kính bi thương, phả màu tiếc nuối…!
Tình cảm có sức lay động diệu kì, mạch thơ, cấu tứ cũng từ
đó mà đổi thay, mới khi nao không gian ngập tràn sắc nắng hàng cau “xanh mướt
quá” gợi cuộc sống hạnh phúc, ấm êm mà giờ cuộc sống ấy đâu rồi, phải nhún mình
nhường tình tuyệt vọng, sầu ứ đọng bấy lâu tự lòng người chảy tràn đong đầy sông
trăng. Thực tại phiêu tán… Tất cả dường như đang cất bước vội đi ngay: gió bay
mất, mây cũng trôi về phía cũ, nước cũng cố mà chuồi xa mãi… có gì ngang trái,
trớ trêu thay! Tựa như thuyền và nước của chàng Huy Cận, gió – mây làm sao có
thể tách rời, gió thổi thì mây bay ấy thế mà sự chia lìa đã nhẫn tâm chia cắt vả
những thứ vốn chẳng thể rời xa. Dòng nước buồn vì tự mang trong tâm trạng hay
chứng kiến khoảnh khắc tống biệt của mây gió mà lòng buồn tự nhặt sầu thả lòng
sông sâu? Dòng nước trôi đi rồi có bao giờ trở lại được đâu, buồn làm gì nữa, có
cố ngược dòng mà níu đời, níu vẻ đẹp hương sắc cũng có được chăng?
Hàn Mặc Tử ơi! Trong lãnh cung Hàn Mặc Tử có hay chăng nàng
trăng đang theo thuyền vội cập bến tương ngộ cùng chàng. Thuyền lênh đênh sông
nước và thuyền chở trăng. Thuyền ngả nghiêng bên sông nước, lững lờ giữa bến sông
trăng như đợi “bốc” trăng lên đi du ngoạn nơi bến khác. Ta bắt gặp trong hình ảnh
con thuyền dáng dấp của Hàn Mặc Tử, phải chăng chàng đang hóa thân để hồn buông
theo gió, vượt lãnh cung mà giao cảm với đời? Thuyền cũng lẻ loi nương theo bờ
Hương giang, mải mê, nao nức cùng điệu hò vút cao, ngọt ngào xứ Huế… Liệu có chở
trăng về kịp tối nay với những hẹn thề, nguyện ước tháng năm xưa cũ? Kịp mà làm
gì và rồi trăng sẽ trôi về phương nao? Hàn Mặc Tử khao khát mang trăng về Vĩ Dạ
mà giấu cho riêng mình nhưng thời khắc trôi nhanh lắm đã hơn một lần phụ tình
chàng thi sĩ si trăng. Gió và mây cứ trôi nhẹ trên nền trời, dòng nước lẫn hoa
bắp lay vẫn nhẹ nhàng đung đưa… Tất cả chìm trong mộng ảo, hư thực khó định phân,
thế giới mộng lấn át thế giới thực. Thị giác cũng đành bất lực bởi cảnh thiên
nhiên đâu còn như xưa nữa mà đã hóa cảnh tâm tình... Thuyền đắm trong sầu, ngụp
lặn với muôn vàn mộng ảo để rồi đưa trăng lỡ chuyến… “Tối nay” khoảng thời gian
phiếm định nào thế? Phải chăng chàng đang cố thốt lên “chạy đua với thời gian”.
Quỹ tích nhựa sống đang vơi đi từng giây, từng khắc, đang vĩnh viễn lên đường lìa
bỏ chàng đấy, gắng gượng lên hỡi chàng! Nỗi mặc cảm vẫn cứ bủa vây mãi thế, áo
em trắng quá lóa mắt tôi hay em trong sáng, trinh khôi quá, lại thêm sương khói
mờ nhân ảnh, cao xa quá tôi chẳng thể vời? Đã lóa mắt vì sắc trắng, lại không rõ
dáng hình phải chăng vì lẽ đó mà thi nhân lo sợ? Lối dùng từ cực tả thật chuẩn
xác “áo em” sao mơ hồ mông lung quá, là hiện thân của nhân vật trữ tình hay thôn
Vĩ, cho xứ Huế hay là thế giới “ngoài kia”… không rõ nữa, đến ngay cả thi nhân
cũng ngờ ngợ hoài nghi chính dòng xúc cảm chảy tựa hồn mình…
Thôi! Đành vậy đi, mong mỏi, đau thương để làm gì, đừng cố
níu những thứ chẳng thuộc về mình. Thả trăng trôi đi có được chăng? Cảm phục chàng
đã để lại cho thi đàn Việt Nam khúc thơ xinh “Đây thôn Vĩ Dạ”, một nỗi sầu
đời duyên dáng, tinh tế, một nét đặc trưng điển hình nhưng cũng rất mới mẻ
trong vô vàn nỗi sầu thời thế, sầu thân thế, sầu nhân thế của Thơ mới. Dòng thơ
băng mình chảy chệch quỹ đạo ấy sẽ sống mãi cùng thế nhân, đọng lại ám ảnh nỗi
niềm muôn thế hệ…
Đọc bài viết này chắc chắc nhiều người không thể tin tác giả chỉ là cô gái người dân tộc ít người học lớp 12 trường chuyên Nguyễn Du, thành phố Buôn Ma Thuột và cũng là trại viên Trại sáng tác Thơ - Văn HƯƠNG RỪNG!
Trả lờiXóa