Chào mừng 71 năm Cách mạng Tháng Tám và
Quốc khánh 2-9
TUYÊN
NGÔN ĐỘC LẬP VỚI SỰ
VIỆC GIỮ VỮNG ĐỘC LẬP CHỦ QUYỀN, THỐNG NHẤT,
TOÀN VẸN LÃNH THỔ
HIỆN NAY
Cách đây 70 năm, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám,
ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt
Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đây là văn kiện thể hiện sự kết tinh khát vọng độc lập mấy
nghìn năm của dân tộc. Đó là mốc son chói lọi, góp phần làm rạng rỡ nền văn hóa
Việt Nam, chấm dứt chính thể quân chủ chuyên đế và chế độ thực dân áp bức, mở
ra kỷ nguyên mới dân chủ cộng hòa.
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống anh dũng, kiên cường, trí tuệ và hòa khí
tinh anh của ông cha ta xưa, cộng với tư duy sáng tạo, thông minh, nhìn xa trông
rộng; có sự tham khảo những quan điểm đúng đắn về chủ quyền quốc gia, quyền của
con người trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của
thế giới, đó là Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền của nước Pháp 1791.
Mở đầu Tuyên ngôn độc lập Bác viết: “Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc". Nếu như trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ có câu: “Mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng” chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh con người, thì
Hồ Chí Minh đã tiến tới một bước xa hơn và cao hơn về tầm tư duy là khẳng định điều
này ở phạm vi rộng hơn, sâu sắc hơn ở chỗ: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do”. Ở đây Người đã thay thế từ “mọi
người” thành từ “tất cả các dân tộc”, những gía trị cá nhân vốn là đặc
trưng của văn hóa phương Tây được thay thế
bằng những gía trị mang tính cộng đồng là đặc trưng của văn hóa phương Đông.
Đó chính là sự sáng tạo tuyệt vời của Bác Hồ kính yêu.
Những quyền trên là thành quả chung của nhân loại trong
cuộc đấu tranh hàng nghìn năm chống lại ách áp bức, bất công của chế độ nô lệ,
phong kiến và thực dân tàn bạo đối với con người. Các quyền đó đã dần dần được
thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật của nhiều nước tư bản bản Âu-Mỹ. Nhắc
lại những chân lý bất hủ đó để chứng tỏ rằng tư duy pháp lý Hồ Chí Minh và nhân
dân Việt Nam là thống nhất và liền mạch với tư duy pháp lý của nhân loại tiến bộ,
không xa lạ với những chân lý phổ biến đã được coi là thành quả văn minh của loài
người.
Bằng những lý lẽ sắc bén, lập luận đanh thép và lời văn hùng
hồn, bản Tuyên ngôn đã khẳng định lại một lần nữa quyền của dân tộc Việt Nam phải
được sống trong độc lập, tự do như bất cứ dân tộc nào khác, “Một dân tộc đã
gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! dân tộc
đó phải được độc lập!”. Trong hồi ký “Những năm tháng không thể nào quên”, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã có từ 30 năm trước
đây. Nhưng hôm nay mới chính là ngày chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân
Việt Nam
công khai xét xử. Lịch sử đã sang trang. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu: Kỷ nguyên
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc…cả dân tộc hồi sinh” .
Trong bối cảnh quốc tế và Việt Nam sau chiến tranh thế gới
thứ hai, khi mà trật tự pháp lý quốc tế chỉ nhằm phục vụ quyền lợi ích kỷ của các
nước lớn tư bản, đế quốc, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa chính là lời tuyên bố cáo chung của chế độ thuộc địa dưới
mọi hình thức, đồng thời cũng là lời báo hiệu mở đầu thời đại trỗi dậy của các
dân tộc thuộc địa đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Chính vì vậy, nhiều nước Á-Phi
đã thừa nhận đóng góp to lớn của của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự xác lập một nền
công pháp quốc tế mới, một nền công pháp đảm bảo cho các quyền tự do, bình đẳng
của con người và quyền tự quyết, quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc
trong việc tự do lựa chọn con đường phát triển của mình về chính trị, kinh tế ,
văn hóa, …
Những câu kết thúc trong bản Tuyên ngôn độc
lập chính là “lời thề độc lập” - lời thề bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền
đất nước của nhân dân Việt Nam :
“Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Đánh
giá về ý nghĩa quốc tế, ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn độc lập của nước ta, trong lễ trao bằng tiến sĩ luật
khoa danh dự cho Chủ tịch Hồ chí Minh năm 1959, ông
Giám đốc Trường Đại học Tổng hợp Băng-Đung (Indonesia) đã nói: “Đó là
một đạo luật mới của nhân dân thế giới khẳng định quyền tự do, độc lập bất khả
xâm phạm của các dân tộc bị áp bức”.
Thực hiện lời thề trong Tuyên ngôn độc lập: “Toàn
thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để
giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”, cả dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã anh dũng đấu tranh suốt 30 năm chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn
độc lập, tự do” để giành độc lập, thống nhất với những chiến công hiển hách;
đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ chính quyền cách
mạng non trẻ; tiến hành cuộc kháng chiến chín năm trường kỳ, đầy gian khổ, hy
sinh, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu”. Tiếp đó, trải qua 21 năm chiến đấu anh dũng, kiên cường đánh bại các chiến
lược chiến tranh của địch, giành toàn thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngay sau đó, nhân dân ta lại phải tiếp tục
tiến hành các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc và làm
nghĩa vụ quốc tế cao cả. Chỉ đến khi đó, nhân dân ta mới thực sự được sống
trong hòa bình, xây dựng lại đất nước. Đến nay, qua 30 năm tiến hành công cuộc đổi
mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được
củng cố, tăng cường, lên tầm cao mới.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa của nhân dân ta tiến hành trong bối cảnh tình hình thế giới và
khu vực có những thay đổi nhanh chóng, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, tạo ra cả
thời cơ và thách thức đan xen. “Bốn nguy cơ mà
Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
các nước trong khu vực và trên thế giới ; nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các
thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta,..” chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Vấn
đề đáng lo ngại nhất hiện nay là những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ
quyền, an ninh vùng biển, đảo Việt Nam vẫn đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột
vũ trang, tranh chấp trên biển, đảo và thềm lục địa của nước ta chưa được loại
trừ; còn tồn tại những vấn đề xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của Việt Nam, đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng
hải ở biển Đông.Biển Đông trở thành một trong những “điểm nóng”, mối quan tâm hàng
đầu của thế giới. Trong thời gian qua, chính phủ, các nhà khoa học quân sự, chính
trị, giới học giả và các hãng thông tấn báo chí trên thế giới, nhất là cộng đồng
các nước ASEAN đã đồng loạt lên án các hoạt động mở rộng, bồi đắp phi pháp
của Trung Quốc trên một số đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam.
Ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ở La Hay
(Hà Lan) đã ra phán quyết vụ kiện giữa Cộng hòa Phi-lip-pin và Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa. Đây là phán quyết quốc tế đầu tiên liên quan đến tranh chấp ở biển Đông.
Toàn văn phán quyết của PCA gồm 497 trang, trong đó có một số nội dung đáng
quan tâm, đó là: (1) PCA khẳng định yêu sách của Trung Quốc về “các quyền lịch
sử” đối với các vùng biển nằm trong “đường 9 đoạn” là trái với Công ước của Liên
hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS); (2) Trung Quốc không có “tư cách lịch sử” đối
với các vùng biển ở biển Đông và không có cơ sở pháp lý để đưa ra những tuyên bố
về “các quyền lịch sử” đối với những nguồn tài nguyên trong “đường 9 đoạn”; (3)
Theo PCA, không một đảo nào thuộc quần đảo Trường Sa tạo cho Trung Quốc quyền có
vùng đặc quyền kinh tế; (4) Trung Quốc đã làm tổn hại lâu dài và không thể bù đắp
được hệ sinh thái san hô ở quần đảo Trường Sa. Trung Quốc đã can thiệp vào các
quyền đánh bắt truyền thống của Phi-lip-pin tại bãi Scarborough (Hoàng Nham) trên
biển Đông; (5) Những hành động của Trung Quốc đang làm trầm trọng thêm những
tranh chấp với Philippines
trong lúc các bên đang nỗ lực để giải quyết vấn đề.
Sau phán quyết của PCA, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã
tuyên bố trắng trợn: “Trong bất cứ tình hình nào, chủ quyền lãnh thổ
và các quyền, lợi ích hàng hải của Trung Quốc trên biển Đông đều không chịu ảnh
hưởng từ phán quyết của Tòa Trọng tài. Trung Quốc không chấp nhận bất cứ chủ trương
và hành động nào xuất phát từ phán quyết” (theo Thủy Thu/Soha.vn/Ttvn.vn.) Phản ứng của Trung Quốc tiếp tục gia tăng thêm các căng
thẳng trên biển Đông.
Trước tình hình phức tạp đó, quán triệt và kiên định tinh thần cơ bản của Tuyên ngôn
độc lập, Đảng ta vẫn nhất quán khẳng định: “kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo
vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời Tổ quốc; đồng thời giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, để phát triển bền vững đất nước”. “Có
kế sách ngăn ngừa, loại bỏ nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động
phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố
bên trong có thể gây ra đột biến”.
Độc lập dân tộc hiện nay không chỉ xác định trong biên giới
quốc gia, mà còn thể hiện thông qua vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế, trong việc hợp tác giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu và đấu tranh, bảo
vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc bên ngoài biên giới lãnh thổ (biên giới mềm).
Do đó, Đảng ta đã đổi mới mạnh mẽ tư duy đối ngoại với phương châm: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc
gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng
và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển.Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại
nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN”. Để
có thể giữ nước từ khi chưa nguy, bảo vệ độc lập, chủ quyền, đặc biệt là chủ
quyền trên biển Đông, phải thực hiện cho bằng được: “Kinh tế phải vững, quốc
phòng phải mạnh,thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị- xã hội ổn định,
cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”.
Tuyên ngôn độc lập mãi mãi là một áng hùng
văn bất hủ,
là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học để chúng ta vận dụng vào
quá trình hội nhập, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, xây dựng thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI