Văn hóa Việt Nam tồn tại song song hai nền
văn minh lúa nước của cư dân đồng bằng và nương rẫy của nhóm các tộc người thiểu
số sinh sống trên các vùng miền núi. Cả hai nền văn minh ấy đều vô cùng rực rỡ
và độc đáo, góp phần làm nên những đặc trưng riêng biệt của một chủ thể văn hóa
Việt Nam đa dạng mà đồng nhất.
Căn cứ theo tôn giáo thực hành đa thần sản
sinh từ văn minh nương rẫy mà một năm của người Tây Nguyên có nhiều lễ tiết. Đầu
tiên là những lễ thức theo chu kỳ của nông lịch canh tác nương rẫy, tiếp tới là
theo vòng đời sinh trưởng và chết đi của một con người, cuối cùng là những lễ
thức phải có để phục vụ cho những mối quan hệ xã hội, vô cùng cần thiết đối với
mọi cộng đồng. Quan trọng nhất trong hệ thống các lễ thức này, chính là những lễ
nghi liên quan tới mối quan hệ sản xuất, canh tác nương rẫy. Các lễ nghi chính
là thái độ ứng xử đầy tôn trọng của cư dân miền núi đối với các vị thần linh
thiêng. Và mùa xuân chính là mùa tập trung dày đặc nhiều lễ hội nhất của Tây
Nguyên.
Chuyện kể rằng đưm hrưm - ngày xưa hạt
lúa rất to. Khi lúa chín vàng, chắc hạt, bông cong vòng trĩu xuống, con người
phải bắc sợi giây dài từ rẫy, lúa tự theo đó về nhà. Chỉ bỏ vài hạt nấu là có nồi
cơm ngon. Nhưng tại cô gái ấy mải chơi không coi bếp lửa, để gạo nở bùng, vỡ ra,
chảy hết xuống bếp làm tắt cả lửa. Yang giận quá nên cho hạt lúa cứ nhỏ lại thế.
Bắt con người phải tự suốt lúa, tự gùi mang về.
Cổ tích là thế. Nhưng tộc người Tây Nguyên
nào cũng rất coi trọng hạt lúa. Có hai cách gìn giữ lúa giống: một cách là bó thành
từng bó nguyên bông lúa, treo trên gác bếp. Cách thứ hai suốt lấy những hạt chắc
mẩy nhất, bỏ trong những chiếc vỏ bầu khô, đặt trên gác bếp. Đến mùa trồng tỉa,
người phụ nữ chủ nhà phải đích thân gieo những khóm lúa dùng để cúng Yang ở đám
đất giữa rẫy. Lúa chín tự mình cắt về, tự tay nấu chén cơm cúng đầu tiên. Trong
hệ thống các lễ nghi theo nông lịch, những lễ cúng lúa được coi là quan trọng
nhất, thế nên bà con mới thường gọi là Mẹ Lúa. Để cúng lúa thông thường có 2 lễ:
khi gieo hạt và khi suốt những hạt lúa chín đầu tiên vô gùi. Thu được 100 gùi lúa
là nhất định phải có ăn trâu để tạ ơn các thần linh, (để đón được hạt lúa về nhà,
người Rmam phải cúng tới 5 lần, người Mnông cũng phải cúng 2 lần).
Trong hệ thống các lễ nghi theo nông lịch của
người Tây Nguyên nói chung, người Êđê nói riêng, lễ cúng giống lúa là lần cúng
thứ nhất, nhưng cũng là giai đoạn thứ 2 trong vòng đời cây lúa, sau lần đầu tiên
cúng rẫy để chuẩn bị đất đai cho vụ mùa mới. Đây là nghi lễ được tiến hành khi
việc phát hoang khu đất mới, hoặc đốt rẫy, dọn đất mảnh rẫy cũ đã xong. Trong lễ
này, không chỉ mời gọi, cúng thần lúa (yang hri) mà còn cúng các vị thần
đất (yang êlăn), thần mưa (yang h’yan), thần gió (yang angin)…
cầu cho mưa thuận gió hòa, giúp cho mùa màng bội thu. Bởi những vị thần này được
tin rằng luôn hiện diện xung quanh cuộc sống của cộng đồng- kể cả linh hồn của
những người đã khuất - phù hộ hay trừng phạt tùy vào thái độ ứng xử của con người.
Con chim tre vet chưa cất tiếng gọi, người
phụ nữ chủ gia đình đã xếp gọn ghẽ tấm mền
thổ cẩm, vấn lại mái tóc dài, lui cui nhen bếp lửa, chuẩn bị các lễ vật sẽ phải
có trong lễ cúng. Bởi theo tập quán, người Êđê thường gieo lẫn các loại hạt giống
bầu bí, cà cùng với giống lúa, nên lễ vật sẽ bao gồm hai con gà trống, một ché
rượu, một chén cơm, một thúng hạt lúa giống, các loại giống cây trồng, một ống đựng
hạt bằng nứa, 2 cây gậy chọc tỉa, cuốc (wăng wit) đều đặt trong một chiếc
mẹt và một ghè rượu. Việc của bà chủ là soạn ra đó cho đầy đủ. Ông chồng cũng
ra khỏi phòng ngủ, vặt cổ một con gà đốt trên bếp lửa cho cháy hết lông và làm
sạch, bỏ vô nồi luộc. Sau đó dựng cây cột gâng và buộc các ché rượu ngay chính
giữa nhà. Vòng lá chuối khô ngăn trấu không nổi lên mặt ché đã gài chặt. Cần uống
rượu đã khai thông. Chiếc nồi đồng đựng nước châm rượu cũng đã được dọn ra, đặt
gần đấy và đổ đầy nước sạch. Con gà trống còn sống buộc chân để cạnh đó.
Mặt trời lên chưa tới ngọn cây, mới ngang hông
nhà, mọi việc chuẩn bị đã xong. Con gà luộc đã chín với đầy đủ bộ lòng, đặt trên
mẹt bên cạnh các hiện vật khác. Lễ cúng được tiến hành long trọng 2 lần. Lần đầu
tại gian khách của nhà dài. Nghi thức đầu tiên, thầy cúng hút rượu trong ché ra, cắt tiết gà cho huyết chảy
vô chén rượu để hiến tế và nghiêm trang khấn thần lúa cùng các vị thần mưa, thần
sông, thần gió, các linh hồn những người thân trong gia đình đã về cõi xa -
Yang atâo… về chứng giám lòng thành của gia chủ. Sau khi khấn xong tại ché, chủ
lễ tiến hành khấn lần 2 tại mâm cúng. Mâm cúng bao gồm một bát tiết gà hòa rượu,
một con gà luộc chín, thúng giống lúa và các giống cây trồng khác. Cũng không
thể thiếu trầu cau (Mẹ Lúa mà).
Nội dung lời khấn cầu thần lúa, các thần mưa,
gió… phù hộ cho mưa thuận gió hòa, hạt lúa bắp, mùa màng gieo xuống đất mọc lên
tươi tốt. Chủ lễ ngồi bên mâm hạt giống các loại, tay cầm bát đựng rượu hòa với
huyết gà miệng khẩn cầu các thần: “Ơ Yang phía tây, Yang phía đông, Yang sông,
Yang núi, Yang mưa, Yang mây, Yang hri, Yang atâo. . Chúng tôi dâng lên các vị
thần linh thiêng con gà và ghè rượu. Xin các Yang cho chúng tôi mùa vụ này mưa đều,
gió nhẹ. Cho giống hạt lúa, hạt bắp, hạt bí bầu
gieo xuống đất nhanh nảy mầm chui lên. Không bị con chim con thú phá phách
ăn hết. Yang cho lúa bắp đầy hạt. Bầu bí nhiều hoa trái. Chúng tôi sẽ lại cúng
các Yang nhiều hơn nữa. Ơ Yang….” Khấn xong ông rảy rượu lên các cây gậy chọc
lỗ, ống đựng lúa giống và các loại hạt giống. Hành động ấy có nghĩa là các hạt
giống và vật dụng này đều đã được các vị thần linh thiêng ban phước, phù trợ
cho một vụ mùa mới an lành và bội thu.
Sau khi đã khấn xong, mọi người cùng uống rượu
cần m’năm mrinh – chuyền tay, bắt đầu từ gia chủ, từ già đến trẻ, phụ nữ
được uống trước rồi đến các thành viên trong gia đình. Những người tham dự cũng
được mời uống để sẻ chia sự khẩn cầu và niềm vui vào mùa vụ gieo trồng cùng gia
đình.
Người ta cũng có thể làm lễ cúng lần thứ 2
này ngay ngoài rẫy. Khi ấy ông chủ gia đình sẽ làm một chiếc dàn cúng đơn sơ đặt
ngay đầu rẫy, hoặc trước cửa căn chòi canh rẫy, trên bày đủ các lễ vật như đã nói
ở trên. Cũng tuần tự như thế mà cúng.
Lễ xong là lúc lên rẫy, bắt tay vào gieo trỉa.
Nếu là lễ cúng ở nhà, không thể thiếu tiếng
nói của ching chêng. Bởi đó là lời mời gọi, là sự sẻ chia của con người đối với
các vị thần linh và cộng đồng. Tiếng ching kết nối trái tim, tâm hồn đối với các
linh hồn Yang atâo đã bay về chốn thiêng, với con người buôn gần, làng xa.
Với niềm tin hồn nhiên và đơn sơ vào sự chân
thành của con người, sự hiển linh của các vị thần, người Êđê tin rằng sau lễ cúng
lúa, các yang đã nhận lời khẩn cầu và sẽ phù trợ cho hạt giống gieo xuống nảy mầm,
mùa màng năm nay tươi tốt, nhà nhà no đủ. Được vậy, đến vụ thu hoạch gia chủ sẽ
sửa soạn một lễ cúng lớn hơn, con vật hiến sinh to hơn để tạ ơn.
Mùa
màng cứ vậy trôi đi hết mùa nắng tới mùa mưa trên cao nguyên đất đỏ màu mỡ. Cầu
Mẹ Lúa ban cho bội thu, để nụ cười nở trên môi con người và tiếng ching knah
chảy dài theo gió, theo nắng. Và rồi đến ngày thu hoạch, căn cứ vào số gùi
lúa được đem về, người ta lại tổ chức các lễ cúng lúa mới tạ ơn cho Mẹ Lúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI