Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019

THỦ LĨNH SĂM BRĂM ĐƯỢC GẶP BÁC HỒ sáng tác của TRƯƠNG BI - CHƯ YANG SIN SỐ 323 THÁNG 7 NĂM 2019






Săm Brăm tên thật là Mang Lo, cha ông là người Chăm, mẹ ông là người Êđê. Ông sinh ra tại buôn Mang Chăm, thuộc vùng giáp ranh Phú Yên – Đắk Lắk. Ông lớn lên theo nghiệp cha làm thầy thuốc. Sống bằng nghề bốc thuốc chữa bệnh cho mọi người nên ông đi nhiều, đến nhiều địa phương khác nhau. Nhờ vậy mà ông hiểu được nỗi thống khổ của người dân mất nước. Trong những chuyến đi này, ông may mắn gặp được những người Cộng sản, nhờ vậy mà ông đã giác ngộ và nuôi chí đứng lên cứu nước.
Rồi ông dấy binh khởi nghĩa. Trong những ngày đầu khởi nghĩa, thủ lĩnh Săm Brăm gặp rất nhiều khó khăn. Đa số thanh niên trai tráng sợ giặc Pháp, theo gia đình chạy vào rừng lánh nạn, nên công việc tuyên truyền vận động dân chúng tham gia nghĩa quân vô cùng gian nan. Thế là ông học kinh nghiệm chiêu mộ nghĩa quân của thủ lĩnh N’Trang Lơng. Ông mời các nghệ nhân biết kể sử thi đến các buôn làng của người Êđê, M’Nông, Jarai, Bana, Xê Đăng, K’Ho… để kể sử thi. Theo tập tục của người Tây Nguyên, chỉ có kể sử thi thì mới tập hợp được đông đảo dân chúng. Nhờ vậy mà Săm Brăm đã biến việc nghe kể sử thi thành cuộc tuyên truyền vận động thanh niên tham gia nghĩa quân. Với cách làm này, nghĩa quân của thủ lĩnh Săm Brăm lúc đầu mới có 50 người, chỉ sau một mùa rẫy đã lên đến 50.000 quân. Ông đặt tên cho cuộc khởi nghĩa này là Phong trào “Nước xu” (yêu nước). Căn cứ nghĩa quân của ông không chỉ ở địa bàn rừng núi Đắk Lắk, Phú Yên, JaLai, mà còn lan rộng sang địa bàn Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương và sang các bộ tộc Lào, Khơ Me. Ở những địa bàn này đều có các tù trưởng tài giỏi lãnh đạo và có tiềm lực kinh tế để nuôi quân đánh giặc. Do vậy mà nhiều đồn bốt của giặc Pháp ở Tây Nguyên bị nghĩa quân của Săm Brăm lần lượt tiêu diệt, làm cho binh lính Pháp hoang mang giao động và Khâm sứ Trung kỳ ngày đêm lo lắng, mất ăn, mất ngủ, liền tổ chức nhiều cuộc đánh lớn hòng tiêu diệt nghĩa quân của thủ lĩnh Săm Brăm.
Một hôm, Công sứ tỉnh Đồng Nai là Luysiêng Ăngê mở một trận càn lớn và bắt được một chỉ huy thuộc nghĩa quân của Săm Brăm ở Lâm Đồng. Sau khi khai thác vị chỉ huy này, Công sứ Đồng Nai đã viết báo cáo gửi Khâm sứ Trung kỳ: “Săm Brăm là nhân vật có chòm râu dài. Ông ta là gốc người Êđê, biết nói tiếng Kinh, tiếng Chăm, tiếng Lào, tiếng Khơ Me và cả tiếng Pháp. Đôi khi ông ta biến thành con rắn và sống dưới biển, đôi khi ông ta trở lại thành người và sống trong rừng. Sự di chuyển của ông ta như gió, như mưa dông…” (Mật báo số 71 c,77c của mật thám Pháp).
Sự đồn đại ấy đã làm tăng thêm uy tính của thủ lĩnh Săm Brăm và nghĩa quân của ông. Từ đó nghĩa quân của Săm Brăm phát triển khắp nơi, làm cho quân Pháp vô cùng lo sợ.
Năm 1938, Công sứ Pháp tại Đắk Lắk đã cử Đồn trưởng Buôcgơri tổ chức một cuộc càn quét lớn vào các căn cứ nghĩa quân bằng máy bay, xe bọc thép và đại bác cùng hàng nghìn quân. Biết được tin này, thủ lĩnh Săm Brăm liền cho nghĩa quân cải trang thành dân thường vào ở với dân trong các buôn làng Tây Nguyên. Khi quân Pháp càn đến các khu căn cứ, chúng thấy nhà không, rừng vắng, nên càng tức giận.
Trong những ngày này, thủ lĩnh Săm Brăm đã đóng giả thầy thuốc đi chữa bệnh cho dân ở khắp các buôn làng Tây Nguyên, nhằm nắm tình hình, trấn an tinh thần nghĩa quân và dân chúng. Buổi tối, ông mời các nghệ nhân kể sử thi cho mọi người nghe để động viên tinh thần chiến đấu của nghĩa quân.
Một hôm, thủ lĩnh Săm Brăm đang tổ chức kể khan Êđê ở một ngôi nhà dài tại buôn Êa Khanh, thuộc địa bàn Cheo Reo, thì có tin quân Pháp đang tiến vào buôn. Nhờ có mật thám chỉ điểm, nên chúng bắt được ông. Giặc Pháp đưa ông về giam tại nhà đày Buôn Ma Thuột.
Một tháng sau, Tòa án phong tục Đắk Lắk xử ông 10 năm tù và phạt 500 đồng bạc Đông Dương. Sau đó ông Săm Brăm gửi đơn kiến nghị lên Khâm sứ Trung kỳ. Vì lúc ông bị bắt là đang chữa bệnh cho dân, chứ không có hành động chống lại quân đội Pháp ở Tây Nguyên, nên tòa án phong tục Đắk Lắk xử lại vụ này, ông được ân xá chỉ phạt 5 năm tù và chỉ nộp phạt 250 đồng bạc Đông Dương.
Cách mạng Tháng Tám-1945 thành công, ông Săm Brăm được các chiến sĩ của ta cứu ra khỏi nhà đày Buôn Ma Thuột. Ông trở về gặp lại nghĩa quân của phong trào “Nước xu” tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân, chống lại bọn phản động, bảo vệ thành quả của cách mạng.
Tháng 5-1946, thủ lĩnh Săm Brăm được Bác Hồ mời ra Hà Nội dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc. Trong những ngày dự Đại hội, ông Săm Brăm được Bác mời cùng ăn cơm. Bác ân cần thăm hỏi sức khỏe và đời sống của đồng bào Tây Nguyên và gia đình ông. Bác khen ngợi phong trào “Nước xu” do ông lãnh đạo. Trước khi chia tay, Bác Hồ tặng ông thanh bảo kiếm (do bộ đội ta tước được của một tướng Nhật). Bác căn dặn: Cụ hãy dùng thanh bảo kiếm này tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân phong trào “Nước xu” đánh thắng mọi kẻ thù khi chúng đặt chân lên núi rừng Tây Nguyên, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng nước nhà.
Thủ lĩnh Săm Brăm nhận thanh bảo kiếm từ tay Bác Hồ, xúc động rơi nước mắt, rồi nói: “Cảm ơn Bác! Tôi xin hứa sẽ làm thật tốt lời của Người căn dặn.”
Trở về Tây Nguyên, thủ lĩnh Săm Brăm kể lại cho nghĩa quân và đồng bào các buôn làng cùng nghe về những ngày dự Đại hội thi đua yêu nước và vinh dự được gặp Bác Hồ. Mọi người nghe kể đều xúc động và thầm hứa với Người: Đồng bào Tây Nguyên một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, cùng đồng lòng, đồng tâm ủng hộ nhiều sức người, sức của cho cách mạng, góp phần giải phóng quê hương để đón Bác vào thăm Tây Nguyên cho thỏa lòng mong ước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI