Nhà thơ PHẠM DOANH
Trên
đời, có người gặp hàng ngày mà vẫn quên, có người chỉ gặp một thoáng chốc mà lại
nhớ lâu khó quên. Ấy là trường hợp đối với nhà thơ Phạm Doanh. Khi gặp bao giờ
cũng vậy, câu cửa miệng của ông là: Xin chào người, người có khỏe không… Không
biết với người khác thế nào, chứ với riêng tôi, ông vồn vã, ân cần khiến tôi
nhiều lúc phân vân, khó nghĩ. Vì ông là nhà thơ lớp trước, gặt hái được nhiều
thành công trong công việc sáng tạo, là người có thơ in trên báo VĂN NGHỆ
từ thủa xa lắm, đâu những năm 70 của thế kỷ trước thì phải. Ông là hội viên Hội
nhà văn Việt Nam từng đạt giải thưởng Văn học về đề tài công nhân (1972-1975)
do Tổng Công đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức với tập thơ: Xứ đầu tiên;
giải thưởng Văn nghệ Hạ Long năm 1983; giải thưởng VHNT của Uỷ ban toàn quốc liên
hiệp các hội VHNT Việt Nam năm 1997 với
tập thơ: Ấy là tôi
Thi
thoảng có gặp, vẫn thấy ông đầu tóc xanh đen mượt loáng, áo quần phẳng phiu là ủi
cẩn thận, giầy đen bóng đàng hoàng lắm. Đôi mắt sâu đen lấp sau cặp lông mày đậm
với khuôn mặt đầy đặn. Chưa thấy ông đeo kính bao giờ, chứng tỏ đôi mắt của ông
còn tinh lắm, nhìn đời, nhìn người còn nhanh nhạy, vi tế lắm. Nhưng không hiểu
sao, tôi nhìn ông vẫn toát lên cái vẻ khỉnh khỉnh thế nào ấy, dù ông rất hoạt
ngôn khi nói chuyện. Điều này mong ông bỏ qua cho. Chính cái vẻ khỉnh khỉnh ấy
mà tôi không quên ông được. Và rồi, tôi biết ông sinh ngày 19.12.1942, tại làng
Hoàng Pha ở ngoại ô thành phố cảng Hải Phòng. Thật không ngờ ông lên 7 tuổi đã
mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tuổi thơ ông thật bất hạnh, nhưng được cái may mắn sống với
ông nội là người giỏi chữ nho, nên ông được thừa hưởng không ít những kiến văn
do ông nội truyền dạy và bảo ban. Thời gian ở với ông nội là quãng thời gian vô
cùng quan trọng trong nghiệp văn sau này của ông. Đời lấy mất dòng sữa ngọt ngào,
sự âu yếm dịu dàng của mẹ, và những lời ru nồng nàn bên cánh võng của bà cùng sự
cứng cỏi của cha nhưng lại đắp bù cho ông những trải nghiệm cuộc đời từ rất sớm.
Chính sự quăng quật của đời đã góp tạo một nhà thơ Phạm Doanh sau này. Tuổi thơ
ông thật khốn khổ, buồn đau, chắc chưa khi nào ông có một đêm trăng rằm đúng
nghĩa, lên 10 tuổi phải ở một mình, tự kiếm sống bằng nghề đánh giậm. Cái khốn đốn
của người này nhiều khi lại là cái may mắn của người kia. Sự khắc nghiệt của số
phận nhiều khi là cơ may để vươn lên, để tỏa sáng. Nếu từ năm 16 tuổi mà ông không
ra mỏ than Hòn Gai làm thuê thì chắc chắn rằng không được nhà thơ Chế Lan Viên
hạ một câu danh giá cho cả đời thơ của ông: Đây đích thực là lục bát công
nghiệp. Giữa thực tế đời sống và sáng tác có một sợi dây xâu chuỗi mật thiết
với nhau. Đọc các sáng tác ta dễ dàng nhận ra cái quan điểm nghệ thuật của người
sinh ra nó. Nhiều khi điều đó hiện diện trong từng hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu
một cách vô cùng hồn nhiên, cứ như từ đâu đó mách bảo ta làm như thế này chứ không
phải làm thế kia. Ấy là giá trị của thực tiễn đã được tác giả thể hiện trong sáng
tác của mình. Điều này cắt nghĩa sự thành công ngay từ đầu của Phạm Doanh trong
bài thơ: Đi trong lò giếng mà nhà thơ Chế Lan Viên đánh giá rất
cao.
Thời gian đắm mình vào các công trường than, giếng mỏ, xây
dựng nhà máy, cầu đường… đã đem lại cho ông nhiều gặt hái thành công trong sáng
tác. Hầu hết các bài thơ trong thời kỳ này, ngót nghét cũng gần ba chục năm
(1959-1987), đều có hơi thơ, giọng thơ khỏe khoắn, yêu đời, say sưa đến lạ lùng,
do đó các bài thơ của ông đều mở đầu vô cùng tự nhiên, thoải mái, không gợn chút
gì là gượng ép. Người đọc có cảm giác đặt bút xuống là ông viết ra được ngay,
không đắn đo, nghĩ suy gì cả. Ngôn ngữ, hình ảnh cứ ngồn ngộn, tươi rói như vừa
bứng từ đời sống vào. Trong bài: Đi trong lò giếng ông viết:
Trong lò giếng chúng tôi đi/ Đất và đá –chẳng có gì khác đâu/ Mây không bay ở
trên đầu/ Cỏ không êm dịu sắc màu dưới chân/ Một chiều gió thổi quanh năm/ Đèn
lò tỏa nắng, chẳng phân đêm ngày. Rõ ràng ông chỉ kể thôi, kể vật, kể việc,
xen miêu tả với đôi chút nhận xét, thế mà thành thơ. Nếu người khác cũng bắt chước
cách này, tôi tin chắc một trăm phần trăm sẽ không tạo ra được không khí thơ tự
nhiên như ông đã viết. Và trong bài thơ: Khói nhà máy của tôi cũng
vậy: Thở ấm cả vòm trời/ hơi thở của những người lao động:/ khói nhà máy của
tôi. Nhiều khi có người nhận xét rằng: làm thơ như thế thì dễ quá có gì đâu?
Vâng, có gì đâu? Có gì đâu là với Phạm Doanh chứ với người khác thì đâu có gì đáng
nói. Lấp ló ở đằng sau cái tự nhiên ấy là cả một quá trình trộn lẫn với đất đá
của đời ông. Ông mà không có đoạn: Rời tuổi thơ trên lưng mẹ cõi còm/ Ấy là
tôi rụng xuống nơi bùn đất/ Lẫn với tàu rau, con cua, hạt bắp/ Câu chửi thề ngầu
đục xóm ca dao thì làm sao có được một chiều gió thổi quanh năm mãi
mãi xôn xao trong lòng người đọc, làm sao có được hơi thở ấm cả vòm trời
đầy ấn tượng như thế. Thực sự ông đã vút
lên từ bùn đất, từ nơi ngầu đục. Từ thực tế ngổn ngang sự việc,
thô ráp để đưa vào thơ cả một quãng dài của sự suy ngẫm kết hợp nhuần nhuyễn với
độ rung của cảm xúc. Cái tài, cái nhạy cảm của nhà thơ là ở chỗ: giữa bộn bề, ắp
đầy, ngồn ngộn của cuộc sống phải chọn cho được một hình ảnh, một chi tiết tiêu
biểu, đắc địa sao cho câu thơ được viết lên bắt nó phải lấp lánh sáng, che hết
u ám của đời chỉ còn đọng lại cái phập phồng tươi rói của nhịp đập sự sống mà
thôi. Với Phạm Doanh, ông đã phần nào làm được điều đó. Ông nhìn sự vật, sự việc
với cái nhìn háo hức của trẻ thơ nên câu thơ đọc lên lúc nào cũng thấy mới mẻ: Sáng
nay trên công trường vang động/ mặt bằng thi công rung lên như mặt trống rồi
Cần trục tháp quay tròn dấu hỏi/…in dấu hỏi lên nền trời vắng khói. (Một
dấu hỏi). Mỗi câu thơ ông viết đều âm thầm mang cái rạo rực, cái đắm
say của tình yêu cuộc sống, của tấm lòng khát khao đem đến cho đời những điều tốt
đẹp hơn. Đó là tấm lòng của những người công nhân, những người kỹ sư thâu đêm
nghĩ suy về một câu hỏi rất đơn giản mà khó vô cùng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
khi về thăm cảng Hải Phòng: Có cách gì nhanh hơn nữa không? Hoàn cảnh đất
nước ta thời ấy là thế, mọi người như một, chỉ biết một hướng về Nam mà thôi,
chỉ biết một lý tưởng, một ý nguyện duy nhất là thống nhất đất nước. Hình ảnh: Anh
kỹ sư thâu đêm trằn trọc/ Sáng dậy nhìn vào đôi mắt đen (Một dấu hỏi)
đến bây giờ đọc lại còn nguyên sự dâng trào của cảm động. Những bài thơ ông viết
trong thời gian này đã đáp ứng được đòi hỏi, yêu cầu của cuộc sống. Trong thơ đã
xuất hiện nguyên xi những khái niệm, danh từ của ngành nghề ông đang làm việc
như: lò giếng, bê tông phần chìm, vữa, xe ben, động cơ, phay, túi nước, công trình…
chính điều này đem lại trong thơ ông sự sinh động, đầy sức sống. Đặc biệt, khiếu
quan sát của ông rất tinh: Mây không bay ở trên đầu; đèn lò tỏa nắng… và
có những liên tưởng đầy thú vị: Một chiều gió thổi quanh năm; Những tầng trầm
tích ngưng đầy thời gian… Có điều, ở nhiều bài thơ ông bẻ quặt, gò nó vào lấy
được để kết bài với một câu khẩu hiệu theo công thức khô cứng, khiến bài thơ bỗng
nhẹ tênh đi nhiều lắm, ví như trong bài Khi xe ủi trở về thành phố
ông viết: Cho đất nước vào mùa xây dựng lớn/ Sóng biển đã cuốn đi tên xâm lược
cuối cùng! Hay trong bài: Tuổi thọ công trình có câu: và
anh sẽ hiểu hơn khi chúng tôi cầm súng/ vì phẩm chất của người xây dựng!... Âu
cũng là đương nhiên. Cái cảm quan nghệ thuật của người nghệ sỹ nhiều khi không
thể nào vượt thoát được hoàn cảnh. Mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể có nhiều
ràng buộc, nhiều khi chủ thể cứ thế mà tuân theo. Nói vậy không phải không có
những trường hợp ngoại lệ.
Con
đường thơ của Phạm Doanh trong gian đoạn từ năm 1959 đến năm 1987 nói chung đều
đi theo một hướng: lấy cuộc sống làm chuẩn, VHNT tuyệt đối phục vụ chính trị,
phản ánh chân thật, hùng hồn do đó mà các bài thơ của ông khi ra đời đều có nhiều
đối tượng người đọc. Chính vì thế, ngay từ tập thơ đầu tiên của ông: Xứ đầu
tiên đã gặt hái được thành công mỹ mãn đó là Giải thưởng văn học về đề tài
công nhân của Tổng Công đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.
Những tưởng ông đằm sâu vào con người và đất cảng Hải Phòng
hơn nữa; tưởng ông hì hụi với xe ben, cần
cẩu, cặm cụi với lò giếng, đổ bê tông đắm đuối với vị mặn của nước biển quê nhà
mãi mãi. Nào ngờ, năm 1987, ông bị vị cay nồng của quả tiêu chín đầu mùa cuốn hút,
bị vị đắng của cà phê đất đỏ mê dụ. Thế là, Đắk Lắk trở thành quê thứ thiệt của
ông. Một vùng không gian rộng lớn đầy bí hiểm và kỳ vĩ đang đợi chờ ông. Những
vùng đất, con người chưa kịp khai phá ấy đã kịp thời in dấu vào thơ ông: Ban
mai ngàn xanh mênh mang/ Tiếng chim Protok bay về buôn sang/ Em gái Êđê đèo gùi
lên rẫy (Nhớ lắm Đắk Lắk ơi). Rõ ràng, không khí thơ,
giọng thơ đã mang sự rộng thoáng, hơi hướng của một vùng đất hứa hẹn nhiều điều
lạ lẫm, mới mẻ. Ông diễn tả nét đẹp mơ hồ, vấn vít, với cái nhìn tinh mà đắm
say: Hoàng hôn vào đêm mông lung/ Tiếng chiêng mời khách ngân dài không
trung/ Men say rượu cần ngọt vào khói thuốc/ Muốn lên sàn quá mà chân ngập ngừng.
Nếu chọn những câu thơ hay nhất về đất và người Tây Nguyên hẳn không thể thiếu
những câu thơ đã dẫn ở trên. Người đọc cứ tưởng chỉ người bản địa mới thấu cảm được
như thế. Thì ra, để chớp được nét đẹp văn hóa, tập tục của bất cứ một vùng đất
nào, trước hết trong hơi thở, trong dòng máu đang chảy của người nghệ sỹ phải ít
ra gội được sương, tắm được gió, bén được mùi thung thổ ở đó thật sâu, thật đậm
thì nó mới chuyển hóa nhanh chóng không khiên cưỡng trong cách nhìn, cách nghĩ,
cách cảm. Có thể nói, Phạm Doanh hòa vào cảnh vật, con người Tây Nguyên thật khéo
léo:…về phía mặt trời/có dãy Chư Yang Sin hùng vĩ/ có dòng Krông Ana biếc
xanh/ có những bông quỳ nở vàng hoang dại/ có con bé gái địu em buôn nghèo (Một
ngày của nhạc sỹ Văn Tấn). Chỉ bằng vài nét của nghệ thuật chấm
phá trong hội họa mà ông đã dựng được bức tranh đủ sắc màu, có kích cỡ của một
lát cắt ở miền đất Tây Nguyên. Nếu trong đoạn thơ trên ông đừng vội vàng đặt từ
con trong câu cuối thì có phải quá
hay không? Câu thơ sẽ vừa đạt được tính tư tưởng sâu sắc vừa đạt được tính mỹ cảm
cao. Thật đáng tiếc. Và đây, một buổi sáng rất tinh khôi: Sáng nay lá đỏ vùng
trời/ Chim gõ kiến báo ngày trong trẻo lắm (Một ngày không chiến
tranh). Người đọc cứ ám ảnh hoài mãi với tiếng chim gõ kiến và sắc
đỏ của màu lá rừng. Âm thanh của tiếng chim gõ kiến chồng lên màu sắc đỏ của lá
rừng gợi chút gì đấy vừa bâng khuâng vừa lưu luyến vừa bồn chồn cứ vương, cứ vương
theo mãi trong không gian. Chỉ những ai sống ở Tây Nguyên mới nhận cảm hết được
sự khắc nghiệt của mùa khô và mức độ khát khao về nước của đất và người ở đây: Mùa
khô gió héo mặt vườn/ Vẫn một mình em quay từng gầu nước tưới (Nhớ em
mùa hoa nở). Câu thơ chưa có sự phát hiện mới lạ nhưng đọng lại trong lòng
người là hình ảnh em gái nhẫn lại chống lại sự ghê gớm của thiên nhiên.
Thời
gian trôi cứ trôi. Lòng người ngổn ngang bao nỗi suy tư. Cuộc sống xô bồ, bụi bặm,
sáng trong, tinh khiết, ôm đồm, tất cả cứ trộn lẫn vào nhau. Phạm Doanh dù là nhà thơ cũng cứ tuân theo quy luật
cuộc sống. Tham, sân, si dù muốn hay không cũng cứ hiện diện trong ông. Tháng năm
càng chất chồng càng nghĩ suy. Sự ồn ào,vồ vập, háo hức dần thế chỗ cho suy ngẫm
sự đời. Ông ngồi mà nhớ về thời xa xôi: Cái thời ấy sao mà kỳ lạ thế/ chẳng
ai lo thất nghiệp/ chẳng ai thích làm giầu/ chỉ lo phải xa rời tập thể/ chỉ thích
nhường cơm sẻ áo cho nhau (Nói với con). Có lẽ, đây là
những câu thơ hay nhất để khái quát về cuộc sống, con người thời mà đất nước chưa hiện diện khuôn mặt của
nền kinh tế thị trường. Ta cảm thông cho nỗi đau quặn thắt mà ông đã trải qua:…các
con sẽ về đâu?/ Cha cứ ngẩn ngơ ngóng rừng dõi biển/ Chẳng có bạc tiền cho các
con vốn liếng/ Thủ đoạn làm giầu, nghệ thuật sống cũng không. Ông đau đớn
nhận ra: Gia sản chắt chiu mấy chục năm ròng/ Chỉ có đức hy sinh và lòng nhân
ái/ Các con biết làm gì ở thời hiện đại/ Với trái tim đa cảm của cha mình. Cái
tâm trạng ấy, cái ngẩn ngơ ấy không chỉ riêng trong ông mới có mà nó hiện diện
hầu hết ở cả thế hệ thời ấy. Ông là người đại diện nói lên bằng ngôn ngữ nghệ
thuật mà thôi. Phải cám ơn ông nhiều lắm. Nhưng càng sống càng thấy cái gia sản
của lòng nhân ái và đức hy sinh có lẽ là cái gia sản đích thực nhất và hiếm quý
nhất, chắc chắn giá trị thực của nó bền sâu nhất. Thơ ông càng về sau chất suy
tư càng đậm. Ông nhìn cái gì cũng đượm màu nghĩ suy: Tiếng hoẵng khàn đêm mưa
gọi mẹ/ lặng ngắm bên sông dưới lùm hoa dẻ/ em ngồi soi bóng nước triều lên (Nhớ
về một dòng sông). Âm
thanh của tiếng hoẵng đêm không ngừng gọi mẹ trong đêm mưa thưa vắng ấy, khua động
tận từng tế bào kí ức của ông và của cả người đọc nữa.
Nay,
ông đã dời gót chân tới tuối 75. Cái tuổi chỉ để ngồi uống trà và ngẫm nghĩ sự đời.
Cái tuổi ngồi đánh cờ mà xem thế sự. Nhưng có lẽ trái tim ông không thể ngủ yên,
bởi ông vẫn còn: Ơ này, ngọn gió hồi xuân/ cứ mơn man cứ xoay vần thịt da/
thì đây cái gốc me già/ cũng xin nứt vỏ biếc ra nụ chồi (Hạ cảm).
Vâng, cái gốc me già Phạm Doanh lại nứt ra một Ấy là tôi nữa thì
sao? Thời gian hãy chờ xem.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI