Thứ Hai, 30 tháng 4, 2018

THÁC BAY - NGƯỜI ĐẸP NGỦ TRONG RỪNG ký của KHÔI NGUYÊN - CHƯ YANG SIN SỐ: 308 - THÁNG 4 NĂM 2018





Cứ tưởng hơn 30 năm làm công dân của mảnh đất này, đã phiêu du tang bồng của kẻ chất ngất tính lãng tử, đã đi đến những ngọn nguồn của vẻ đẹp mảnh đất đại ngàn hoang sơ, phóng túng, đã cảm đủ đôi mùa mưa nắng... chợt nhận thấy mình còn quá ấu trĩ, quá nhỏ nhoi, quá nông cạn trong tầm hiểu biết, chân quá ngắn trong ngàn vạn đường đời đã đi chẳng được bao nhiêu giữa bộn bề cái đẹp đang hiện hữu.
Theo lời giới thiệu của các đồng chí lãnh đạo huyện Ea Kar trong chuyến công tác tại nơi này, rằng trong địa bàn của huyện cũng có thác, tên gọi thác Bay, thói tò mò của kẻ ham khám phá đã thôi thúc tôi muốn tìm đến để được xem tận mắt cảnh trí, nghe tận tai âm thanh thác đổ, được vục mặt vào dòng nước đầu nguồn để cảm nhận, được đắm say dầm mình vào làn nước trong cảnh sơn thuỷ hữu tình...
Từ Buôn Ma Thuột, lướt qua thị trấn huyện Ea Kar theo quốc lộ 26 chừng 25 km, rẽ lối vào đường 691 nối ra quốc lộ 29 tuyến Đắk Lắk – Phú Yên chừng 5 km, nơi đặt Trạm kiểm lâm số 1 của Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, chúng tôi rẽ vào lối hẹp (bên hông của Trạm), một lối đi chỉ dành cho những tay lái lụa với chiếc mô tô từ 70 phân khối trở lên. Lối đi quanh co, băng qua thảm cỏ tranh đã ngả màu đủ độ chín cho việc phủ lên mái nhà che chở con người, luồn lách dưới những tán lá rừng, khúc mòn bởi thỉnh thoảng có người qua lại, khúc trũng thành vệt bởi di chứng do dòng nước mùa mưa. Xuống rồi lên, lên rồi xuống. Xuống xuống lên lên. Lúc nhìn thẳng chỉ thấy bầu trời, khi chúi nhủi chỉ nhìn thấy vệt mòn trước mặt sâu hoăm hoắm, và chắc chắn có khi phải rạp mình để né tránh những cành cây chìa ra chắn ngang đường...
Giữa tháng 3, khi những cánh rừng khộp Tây Nguyên vào mùa rụng lá thì nơi đây, cây vẫn xanh giữa đất trời ngút ngát xanh. Những cây bằng lăng của rừng nguyên sinh vỏ xù xì vảy nến, những cây keo tai tượng do con người trồng khoe chùm trái khô quăn queo với bao hình thù chỉ có tạo hoá ban, những cánh rừng le tràn sức sống; những dây giang, lá mây, cành bứa, nhánh ô rô... bên lối mòn cứ mướt mát xanh. Vài cặp chim cu đang giai đoạn tỏ tình thấy động vội vụt bay lên đậu trên nhánh cây gần đó, gật gù như hỏi nhau: “Gì thế nhỉ?”.
Thác cách quốc lộ chừng 3 km đường rừng. Nếu tay lái có lụa thuộc hạng đẳng cấp của dân phượt cũng chỉ đi được ½ quãng đường đành phải dừng xe để đi bằng phương tiện “căng hải”. Hôm nay chúng tôi vào thác Bay, nơi lúc này chưa thể là điểm đến cho những người không đủ thể lực vì chân yếu, vì bụng to, vì xương khớp, vì ít vận động, vì sợ độ cao, vì không quen nắng gió...
Đến được Thác Bay, sự thoả mãn trong tôi như dâng đến tận cùng. Đó là sự mãn nhãn với trời mây non nước giữa khung cảnh sơn thuỷ hữu tình; đó là được nghe âm vang của dòng nước nguồn đang vất vả luồn lách qua các khe đá để nhập vào một thung rồi đột ngột đổ ào ào từ độ cao trên 30m xuống một lũng nước xanh; đó là sự mát lành của nước nguồn đã gột rửa mồ hôi và bụi bặm cùng nỗi mệt nhọc sau quãng đường đầy lo âu chen trong sự tò mò và niềm háo hức; đó là sự cảm nhận hơi thở của rừng, sức sống của rừng... Nếu như ngoài kia, thị trấn Ea Kar đang 32 độ c thì lúc này, ở thác Bay chỉ chừng 25 độ c.
Trên đỉnh bờ bắc của thác là một bãi đá hoa cương thừa diện tích và địa hình cho những người đủ sức khoẻ và hiếu động chạy nhảy, dư việc cho những người nghiện facebook chụp ảnh câu view câu like, thoải mái để tổ chức cho cuộc picnic dã ngoại vài chục người... Hãy yên tâm, dòng thác đổ không ồn ào như bao dòng thác khác, hình như âm thanh của thác đã vút thẳng lên tận chín tầng mây để nói chuyện với trời, hình như âm thanh của nước đã được rừng hút ngậm, hình như âm thanh của thác đã được những phiến đá hoa cương kia giữ làm niềm yêu của riêng mình... nên ngồi nơi đầu thác, bạn cứ ôm đàn ngồi hát, những người chung quanh vẫn nghe được tâm tình của bạn gửi vào làn điệu bạn đang cất lên, bạn cứ rủ rỉ tâm tình thì người đang sát vai vẫn nghe tiếng con tim của bạn.
Bên kia bờ bắc, một vách đá dựng đứng, đá chồng đá vợ, đá mẹ đá cha tầng tầng lớp lớp. Những khe lằn ngang như thể trán hoặc khoé mắt người hằn sâu do thời gian đếm tuổi, những khe lằn dọc để đoán rằng nỗi khó nhọc của con nước đầu nguồn dâng hiến khi gặp được mùa mưa.
Trông ngược hướng tây, núi non trùng điệp; trông xuống hướng đông, một hồ nước mênh mang, cuối hồ là những đá lô nhô như bộ ngực của hàng trăm hàng ngàn thanh nữ chặn tầm mắt mải dõi theo con nước.
Thác Bay chỉ là một đoạn rất ngắn của dòng Krông Năng đang mải miết chảy vào sông Ba, một diện tích rất nhỏ so với lưu vực có diện tích 13.900 km2, với chiều dài dòng chảy chính là 388 km, bắt nguồn từ đỉnh Ngọc Rô cao 1.549m của dãy Trường Sơn (thuộc tỉnh Gia Lai) rồi vượt muôn trùng gian lao mới hoà nhập được vào biển Đông qua cửa sông Đà Rằng (thuộc tỉnh Phú Yên). Đây cũng là một dòng chảy hiếm có ở Tây Nguyên khi dám đem nguồn nước tưởng rằng êm dịu từ bên tây cắt ngang dãy Trường Sơn để đến được với biển Đông.
Hôm nay tôi đến với thác Bay vào giữa mùa khô, thác đổ tung nỗi niềm trong tôi trắng xoá, thác réo rắt gọi tôi nỗi rạo rực sống và cống hiến cho đời, thác bảo với tôi rằng hãy biết yêu... Được biết, cái tên gọi thác Bay chỉ ứng với mùa mưa, khi dòng nước kia không chỉ đổ thẳng xuống để tạo nên làn hơi lung linh sắc cầu vồng mà cuồn cuộn réo sôi bạo liệt khiến những phiến hoa cương dưới chân tôi đang đứng phải nổi vân, khiến dòng nước đổ từ độ cao 30 m kia bay ngang lưng trời mới đáp xuống thung sâu...  
Lần theo từng mỏm đá, từng sợi dây rừng, từng mảng rễ cây đủ độ vững chắc của thời gian đã trải qua hàng chục hoặc hàng trăm mùa mưa nắng, đánh đu số phận bằng độ liều lĩnh, tôi cũng chỉ đến được lưng chừng thác để chụp vài pô ảnh bằng máy điện thoại. Lòng xót xa nuối tiếc trách mình không phải là nghệ sĩ nhiếp ảnh, trách mình không phải là hoạ sĩ, trách mình không phải là người biết chuyển tải cái đẹp đang lơ lửng treo tước mắt...
Thôi đành coi thác Bay giữa vùng lõi của Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô thuộc huyện Ea Kar như nàng công chúa đẹp tuyệt vời đang miên man ngủ. Biết đâu ngày nào đó có chàng hoàng tử yêu và say nàng đến lay gọi và dắt nàng vào chốn thiên thai.
Này các nhà đầu tư nền công nghiệp không khói, hãy mau chinh phục, nàng sau cơn ngủ say sẽ đáp lại các chàng bằng tất cả tình yêu, đam mê, sự quyến rũ... Con ngựa trắng và hoa hồng của chàng sẽ chẳng là gì khi được nàng đáp lại lời yêu.





Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2018

PHÁT HUY TINH THẦN ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975... của NGUYỄN VĂN THANH - CHƯ YANG SIN SỐ: 308 - THÁNG 4 NĂM 2018


Năm 1858, các pháo hạm Pháp tấn công vào Đà Nẵng, lớp lớp quân dân yêu nước anh dũng đứng lên đánh đuổi ngoại xâm và bao người đã hy sinh xương máu trên mảnh đất này để giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 - kể từ phút chiếc xe tăng quân giải phóng húc đổ cánh cổng tiến vào dinh Độc lập - đã đánh dấu chiến thắng vĩ đại của một chặng đường dài chiến đấu hy sinh oanh liệt, mưu trí, dũng cảm của dân tộc ta.
Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa to lớn và tầm vóc vĩ đại của chiến thắng lịch sử 30/4/975. Thắng lợi vĩ đại đó là kết quả của sự hội tụ sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự ủng hộ, giúp đỡ lớn lao của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới. Thắng lợi huy hoàng đó đã chứng minh tài thao lược và bản lĩnh, trí tuệ của Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh cách mạng, được thể hiện đậm nét nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân. Chiến thắng 30/4/975 thực sự là bản hùng ca toàn thắng bất diệt, là chiến thắng của khát vọng và ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”. Đó là nguồn động lực chính trị - tinh thần to lớn, làm bàn đạp cho dân tộc Việt Nam có thêm bản lĩnh, niềm tin để bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ thời điểm lịch sử ấy đến nay, đã hơn 40 năm trôi qua, với lòng kiên định, yêu nước, biết thời, biết thế, biết đi lên cùng thời đại để trường tồn, phát triển - chúng ta đã có những bước tiến vượt bậc… Bao khó khăn, thách thức, cản phá đều không chặn được ý chí của một dân tộc khát khao tự do, hạnh phúc và sự phồn vinh đất nước. Đặc biệt, qua 32 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Tầm vóc và ý nghĩa cách mạng sâu sắc của công cuộc đổi mới ở Việt Nam thể hiện ở việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè năm châu hiện nay đầy sức trẻ, tự tin hội nhập với những đô thị hiện đại; nông thôn mới với điện, đường, trường, trạm hoành tráng. Những khu công nghiệp đang trở thành điểm sáng trên trường quốc tế. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định, độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững, tiềm lực an ninh, quốc phòng ngày càng lớn mạnh. GDP bình quân đầu người năm 2017 đạt 2400 USD. Trong những năm qua, hệ thống chinh sách giảm nghèo và an sinh xã hội ngày càng được tăng cường, hoàn thiện và hiệu quả hơn, người nghèo tiếp cận được đầy đủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước; một số  chính sách đã đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả, được người dân đồng tình ủng hộ, như chính sách người nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, chính sách cho vay vốn tín dụng ưu đãi…
Với truyền thống hoà hiếu của dân tộc, chúng ta nhất quán  “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ…”, đất nước ta ngày càng tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong nước, ở nước ngoài cũng như bạn bè quốc tế. Đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước, hình thành 26 khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, trong đó có 5 nước Uỷ viên thường trực Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chúng ta đã tổ chức thành công nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng, nhất là các hoạt động đối ngoại cấp cao và Năm APEC 2017, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đặc biệt, sau 10 năm Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam tăng hơn 4 lần, đạt gần 425 tỷ USD. Dữ trữ ngoại hối đạt 51,5 tỷ USD. Nhiều tập đoàn lớn trong Top 500 toàn cầu đã chọn Việt Nam để đầu tư phát triển thành trung tâm sản xuất khu vực và kết nối trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thời cơ, vận hội, tương lai tươi sáng đang chờ đón dân tộc ta! Song cũng có không ít khó khăn, thách thức phía trước. Hiện nay, tình hình thế giới hợp tác và phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo, nhưng căng thẳng địa - chính trị, khủng bố, xung đột vẫn tiếp diễn ở nhiều nơi. Ở trong nước, chúng ta được kế thừa những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 30 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội ổn định, nhưng những tồn tại, bất cập nội tại của nền kinh tế tiếp tục bộc lộ rõ nét; nợ xấu cao. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu tham nhũng lãng phí chưa được đẩy lùi. Trong những năm qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những khó khăn yếu kém nói trên để thực hiện “diễn biến hoà bình” chống phá nước ta, can thiệp vào công việc nội bộ của ta; cổ suý tự do cá nhân thông qua thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu tình,… để xâm nhập, tác động, chuyển hoá các tổ chức chính trị, xã hội ở nước ta hòng “phi chính trị hoá” các tổ chức này, từng bước biến thành các tổ chức xã hội dân sự theo tiêu chí phương Tây. Thông qua triển khai dự án tài trợ, các tổ chức phi chính phủ (NGO) đã tìm cách tiếp xúc, móc nối, mua chuộc, kích động tâm lý bất mãn, lôi kéo một số người thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Chúng khai thác, lợi dụng mạng xã hội, internet,… để phát tán đưa thông tin thất thiệt, bịa đặt, bôi nhọ Đảng, chính quyền và các đồng chí lãnh đạo; phủ nhận, xét lại lịch sử và giá trị văn hoá dân tộc, làm phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút lòng tin của cán bộ, đảng viên đối với Đảng, Nhà nước, từ đó làm “đổi màu” các tổ chức chính trị, xã hội. Ngoài ra biến đổ khí hậu; thiên tai hạn hán, bão lũ, xâm nhập mặn, thời tiết cực đoan tiếp tục diễn biến phức tạp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế -xã hội của đất nước.
Để giữ gìn nền độc lập, hoà bình, ổn định và phát triển đất nước bền vững, hơn bao giờ hết chúng ta cần phát huy truyền thống đoàn kết; phát huy những phẩm giá cao quý  của con người Việt Nam trong các cuộc chiến tranh cách mạng, để ngày càng nhân lên những giá trị cao đẹp mà lịch sử đã trao gửi lại cho chúng ta. Nhớ lời Bác Hồ từng dạy: Khi ta mạnh thì ai cũng là bạn của ta; khi ta suy yếu, nhiều kẻ chống ta. Hãy là một đất nước giàu mạnh, một dân tộc thông minh biết vượt qua thách thức, tiến cùng thời đại. Đó cũng chính là ước nguyện của cả dân tộc.
Bài học của Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã và đang cổ vũ nhân dân Việt Nam. Kế thừa truyền thống cha ông, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta nguyện phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, chúng ta hãy chung sức đồng lòng, đổi mới, sáng tạo, liêm chính, kỷ luật, kỷ cương, vượt qua bao khó  khăn, thách thức, tranh thủ vận hội mới, ra sức thi đua, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, xây dựng một nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Thứ Ba, 24 tháng 4, 2018

NGƯỜI HÁI MÂY truyện ngắn của HỒNG CHIẾN - CHƯ YANG SIN SỐ: 308 - THÁNG 4 NĂM 2018







Phía tây, những đám mây từ từ chuyển  màu đen sẫm. Bóng tối trùm dần lên thung lũng. Đâu đó tiếng chim “bắt cô trói cột” đều đều gõ vào màn đêm nghe lạnh buốt sống lưng. Thoảng trong cơn gió rừng xào xạc, tiếng chim ăn thịt vang vọng: “Thu thỉ thủ thì -thủ thỉ thù thì”. Hòa theo là tiếng cú rúc từng nhịp một như kẻ cầm nhịp trong ban nhạc tang. Xa xa tiếng suối chảy réo rắt… tất cả tạo nên không gian ghê rợn của núi rừng.
Hơn ba chục con người nằm quây quanh đống lửa. Che cho họ là những tấm màn một, thêm tấm nilông phủ bên trên, ba bốn người ngủ chung qua đêm. Ngày mai khi bình minh đến, họ đã phải hối hả nhen lửa nấu cơm ăn sáng và nắm theo phần buổi trưa, chiều tối mới lục tục kéo nhau về. Người khỏe bứt được nhiều về sớm, kẻ kém may mắn về muộn hơn. Tính vội tính vàng cho chủ rồi lại bắc bếp nấu ăn cho qua bữa. Cuộc sống cứ vậy đều đều tái diễn. Mỗi ngày cũng kiếm được năm, ba chục ngàn. Nhưng đêm nay…
-Anh em ngủ sớm thế?
Tiếng một người nào đó nói vọng vào núi, núi nhái lại: th…ế… kéo dài không dứt. Mọi người bực mình ngồi dậy ngó kẻ quấy rầy. Hắn khệnh khạng trong bộ quần áo rằn ri, ngang hông đeo khẩu súng ngắn, bao súng che kín bộ hạ, chân đi đôi  giày cao cổ còn mới gác lên trên khúc củi cháy dở. Ánh lửa leo lét soi rõ khuôn mặt đen như than, môi thâm sì, hai hốc mắt sâu hoắm phát ra tia lành lạnh. Hắn trạc khoảng năm mươi nhưng khuôn mặt đầy góc cạnh, có lẽ đó là dấu ấn của đói khát và sốt rét.
- Mời tất cả anh em dậy ta nói chuyện.
          Mọi người nhìn vóc dáng, điệu bộ đã đoán ra hắn là ai nên tất cả im lặng, không ai dám lên tiếng.
- Quan ngài đây mời bà con ra bếp lửa nói chuyện.
Ông chủ thầu mây không biết chui ra từ lúc nào đứng bên người lạ, khúm núm nhắc  lại. Vẫn không có ai đủ can đảm bước ra. Ông ta bực mình đi đến từng chiếc màn một nói rất khẽ:                                                                                                                                                                  - Chúng mày muốn chết hở? Dậy ngay đi!
Việc làm của lão chủ thầu có tác dụng. Đám người nhếch nhác, quần áo xộc xệch, kéo nhau đến bên đống lửa. Người nào người ấy mặt cúi gằm, cứ như dưới chân có vật gì cần tìm.
- Mời anh em ngồi xuống .
Chờ mọi người ngồi xuống hết, người lạ mới nhìn lướt qua đám người làm thuê đang kiếp sợ, nói tiếp:
-Tôi là Y Dhen Bya - Đại tá kiêm Tỉnh trưởng, kiêm Sư trưởng sư 272 của lực lượng Phun-rô.
Mọi người bất giác rùng mình, ngồi xích lại gần nhau hơn. Cái điều ai cũng đoán nhưng rồi ai cũng sợ hãi khi có người nhắc đến: Phun-rô!
- Anh em đừng sợ. Chúng  tôi không làm gì ai cả, chỉ muốn trao đổi một chút để mọi người hiểu chúng tôi chống Cộng có mục đích...
Giọng hắn đều đều, phát âm khá chuẩn tiếng Kinh. Hắn nói rành rọt  như đọc một bài học thuộc lòng. Kết thúc bài diễn văn, hắn nói thêm:
- Anh em thấy chưa, Phun-rô chúng tôi muốn đấu tranh chống Cộng sản nên sẵn sàng đoàn kết với mọi người, xem mọi người như anh em cả thôi.
Tất cả lặng im, nghe rõ cả tiếng nổ lách tách của bếp lửa và cả tiếng của lũ thú ăn đêm. Y Đhen, tên Phun-rô,khét tiếng chuyện đốt nhà, giết người không ghê tay từ trước giải phóng đến nay bỗng nhiên giở giọng mị dân, chắc nó có ý đồ gì đây.
-Tôi nói vậy đúng không thầy giáo?
Y Đhen đi lại gần bếp lửa vỗ vào vai người đàn ông có vóc dáng thư sinh, làm người này giật mình.
- Thầy giáo đừng sợ. Trước đây bọn giáo viên từ miền Bắc vào dạy cái chữ cho dân là chống lại chúng tôi. Chúng  tôi xem bọn đó là kẻ thù nguy hiểm số một cần phải tiêu diệt. Nhưng còn thầy, tôi biết rõ.
Hắn cười rồi móc gói thuốc Zét lấy một điếu châm hút, chìa một điếu cho người thanh niên, nói tiếp:
- Thầy hút đi! Chúng tôi rất trọng người tài như thầy. Có những bài viết mà đài BBC Luân Đôn sử dụng quả là hiếm lắm. Nhưng có lẽ vì tài quá hóa mang tội với chế độ này.
- Dạ, ông nói hơi quá, nhưng sao ông lại biết điều đó?
- Người chúng tôi có mắt khắp mọi nơi tại sao lại không biết cái chuyện lớn tày đình như vậy. Chúng tôi còn biết thầy bốn lần ra vành móng ngựa, trong đó có hai lần tòa án tối cao Việt cộng xử, có đúng không? Vậy chúng tôi tin và muốn hợp tác với thầy cùng đấu tranh cho thế giới tự do.
- Cảm ơn ông! Nhưng tôi còn cha, mẹ, vợ, con.…
-Thầy cứ suy nghĩ cho kỹ. Đây, tôi tặng thầy cái này làm lưu niệm.
Nói xong y vỗ tay, lập tức từ trong bóng tối một tên Phun-rô còn trẻ, ăn mặc rách rưới bước ra đưa cho Y Đhen chiếc răng heo rừng cong vút. Y cầm lấy đặt vào bàn tay người y vừa gọi là thầy giáo:                                                                                                                                                           -Thầy cầm lấy, nó sẽ là bùa hộ mệnh cho thầy. Đoạn quay sang lão chủ thầu:
- Này ông chủ, có gì khao vui cho cuộc hội ngộ hôm nay chứ!
- Dạ có rượu chanh Hà Nội chính cống ạ.
- Được, mang ra đây.
Ông chủ thầu mây ôm ra năm chai rượu chanh loại 0.75 lít và một nắm cá nục khô xếp lên chiếc chiếu trải sát đống lửa.
- Mời tất cả cùng uống, chúc mừng cuộc gặp gỡ hôm nay.
Y Đhen nhắc chai rượu tu một hơi dài, rồi bất ngờ ngửa cổ hú một hồi. Lập tức từ trong rừng xuất hiện thêm sáu tên quần áo vá chằng vá đụp, giày dép rách nát, tay khư khư ôm súng tiến lại gần đống lửa.
- Xin giới thiệu với các anh em, đây là đồng đội của tôi. Bạn bè cả, ta cùng uống với nhau cho vui.
Tội nghiệp chín người đàn bà, già có, trẻ có, ngồi dúm dó lại với nhau, trùm chung một tấm chăn chiên, mặt cúi gằm xuống đất, không dám ngửng lên.
Bọn lính được phép uống rượu, chúng tu ừng ực rồi sán lại mấy vị đàn ông quần áo còn tươm tất đề nghị kết nghĩa anh em. Nhìn họng súng đen ngòm ai cũng run sợ nên họ muốn gì mà chẳng được. Đã kết nghĩa anh em phải trao vật kỷ niệm cho thêm phần “thân thiết” với lý lẽ rất “tình cảm”, bọn lính Phun-rô cởi giày, dép, áo, quần rách rưới đổi cho đám người bất hạnh, lấy đồ mới mặc vào người.
Cuộc gặp mặt kéo dài hơn hai giờ đồng hồ, khi đã khật khừ, Y- Đhen mới đứng dậy bảo mọi người:
- Thôi, xin tạm biệt, hôm sau lại tới. Nhưng cấm không ai được nói chuyện hôm nay. Nếu không… hắn giơ tay cứa ngang cổ mình – đó là hình phạt của kẻ phản bội. Này thầy giáo, tạm biệt và suy nghĩ cho kỹ. Chúng tôi muốn sự tự nguyện của thầy. Không bắt ép.
Khi bọn lính bị màn đêm nuốt chửng, đám người mới òa ra những tiếng thở dài ngao ngán. Tất cả vây quanh người thầy giáo bất hạnh như chớ đợi phán quyết.
- Việc họ họ làm, việc ta ta làm. Khuya rồi, bà con đi nghỉ mai còn làm sớm. Ngày mai ta đi từng nhóm năm sáu người giúp đỡ lẫn nhau. Không việc gì phải sợ người ta cả.
- Ông giáo nói phải đấy! Ông chủ thầu đế thêm; bà con không phải lo gì, họ cũng là người cả thồi!
Mọi người lại tản ra xung quanh bếp lửa, tiếng rì rầm cứ luẩn quất mãi không ngừng. Ông chủ thầu mây kéo người đàn ông được gọi là thầy giáo lại bên chiếc lều duy nhất được che tạm bằng lá cọ, sàn lát cây rừng, có trải chiếc chiếu một. Tuy trông tạm bợ nhưng chắc chắn, chống lại được gió rừng và những hạt sương lạnh buốt. Thêm mấy cây củi cho bếp cháy to lên, ông chủ thầu bảo:
- Anh thông cảm, kiếm được miếng ăn cũng khổ lắm chứ  sướng gì đâu. Ở trong này phải đóng thuế cho Phun-rô bằng gạo, muối, quần áo; có thế họ mới để cho yên. Chứ không à, còn lâu mới đặt chân vào đây được, ấy là chưa kể phải có giấy vận chuyển... nói thế để anh hiểu cái nghề này nó cũng khốn nạn lắm. Anh hút thuốc!
- Cảm ơn bác. Thế Phun–rô có đông không mà khiếp vậy?
- Chắc khoảng trên dưới chục người thôi.
Ông ta lấy  khăn lau chiếc trán ngắn ngủn và khuôn mặt nung núc những thịt. Là một tay buôn lậu cà phê nổi tiếng liều lĩnh một thời, nay chuyển qua thầu song mây; nghe đâu nghề này phất lắm, một sợi song mây lời tới hai, ba chục ngàn đồng. Một xe chở 700 trăm sợi lời ba, bốn cây vàng; vì vậy ông ta phải bám vào rừng bằng mọi giá. Còn anh người thầy giáo bị buộc thôi việc, không nghề ngỗng gì, đành phải đi bứt song mây thuê kiếm sống qua ngày. Nhắp ngụm nước trà chát đắng, ngửa bàn tay phồng lên vì không quen cầm dao, kéo mây, anh khẽ thở dài, hỏi trống không.
- Làm sao bọn chúng lại biết tôi?
- Anh thông cảm, tại tôi cả thôi. Chúng thấy anh không có vẻ gì là người làm thuê, tôi cứ thật tình kể với họ về anh. Ngài Y Đhen có vẻ thích thú lắm. Ngài xem anh như một người hùng có thể hợp tác.
- Thế ông có nói tôi sinh ra và lớn lên tại Thanh Hóa không?
- Có chứ, tôi còn nói cả nhà anh đều làm giáo viên, bố anh trước làm quan cho Pháp nữa cơ. Chính vì vậy nên anh mới được tin cậy.
- Tại sao ông làm vậy?
- Cũng vì miếng ăn cả thôi. Nếu anh nhận lời với họ, họ sẽ tạo điều kiện cho tôi kinh doanh, nhất định tôi sẽ giúp đỡ chị và hai cháu ở nhà. Anh nghĩ xem. Thời buổi này…
-Thôi được, bác để tôi nghĩ đã. Xin phép bác.
-Ngủ lại đây với tôi.
-Khuya rồi, để tôi về ngủ với mấy người bạn kẻo họ chờ.
-Tùy anh.
Bầu trời đầy sao, những vì sao nhỏ bé li ti như những con mắt đang thấp thỏm nhìn anh. Bốn hòn núi cao sừng sững nghiêng bóng che kín cánh rừng… Từng đợt gió ào ào luồn qua đám cây lật mấy tấm ni lông bay phần phật. Phía xa xa, tiếng gà rừng nối nhau báo sáng.
Vân thập thững bước lại chiếc màn của mình định ghé lưng nằm xuống đống lá rừng chợp mắt.
-Anh về rồi à! Thanh lồm cồm ngồi dậy hỏi vọng ra.
-Ừ, sao các cậu không ngủ đi.
-Bọn em lo cho anh quá.
Thanh và Bá là hai thanh niên khỏe mạnh từ Ninh Bình vào đây tìm việc làm với mong muốn kiếm ít tiền làm vốn để học nghề gì đó. Thấy Vân là thầy giáo, không quen vất vả nên thương tình rủ làm chung, nhường cho việc kéo mây, bó song nhẹ nhàng hơn là phát cây, hay leo trèo tận ngọn cây cao chặt bớt gai để kéo dây xuống.
-Anh nằm vào giữa cho ấm. Bá bò ra ngoài nhường chỗ. Lớp lá xanh lót phía dưới gãy rào rào Vân ngả lưng xuống kéo Thanh cùng nằm.
-Bọn em lo cho anh quá. Hay mai anh trốn về, chứ ở đây lỡ bọn chúng bắt thì khổ. Bá ôm ngang lưng Vân thì thào.
- Kệ nó, sức đâu mà lo, chúng nó sắp chết đói cả, lấy gạo đâu mà nuôi mình. Việc ta, ta làm. Thôi ngủ đi, mai còn dậy đi làm .
Một lát sau Vân đã ngáy đều đều. Bá chép miệng lẩm bẩm: “Người đâu vô tâm thế”!

*    
**

Đêm. Mọi người hối hả ăn uống rồi chui vào mùng ngủ ngay; không ai dám ngồi la cà bên bếp lửa. Đống lửa được chất bằng những khúc cây Kơ nia to như đầu người cháy lên hừng hực. Ai cũng mong được một đêm yên thân. Xa xa tiếng chó sói tru lên từng hồi dài lạnh lẽo. Vân cùng Bá, Thanh nằm úp thìa, không ai nói với ai điều gì. Tất cả đều thao thức nhưng làm ra bộ ngủ  say. Bá và Thanh đều có chung tâm trạng lo sợ  Phun -rô hành hình, bắt cóc, lo cho tương lai không biết sẽ ra sao. Còn Vân, anh thao thức không biết có phải vì nhớ vợ con đang sống ngoài thị trấn kia, hay anh thao thức vì nỗi bất hạnh của cuộc đời mình. Một học sinh xuất sắc suốt  mười năm trời theo học  phổ thông, một thầy giáo được trò yêu, đồng nghiệp mến, một cán bộ quản lý giáo dục có năng lực, thế mà bỗng nhiên mất sạch vì bài báo anh viết bị đài BBC đưa lên làn sóng... và bị quy tội có dụng ý bôi nhọ chế độ. Cuộc đời sao oái oăm làm vậy. Nhưng Vân thao thức có thể còn một lẽ khác: bọn Phun-rô, chúng cần mình để làm gì? Có phải như chúng nói muốn đưa mình ra nước ngoài! Hay bọn chúng chuẩn bị rút qua Thái Lan huấn luyện? Hay đây chỉ là cạm bẫy thử mình?
- Này, thầy giáo dậy cho tôi nhờ chút.
Ông chủ thầu mây mò mẫm đến bên cạnh mùng giật giật, nói nhỏ.
-Có gì để mai, đêm hôm thế này không đi đâu cả. Tiếng Bá  quyết liệt.
-Có chuyện cần tôi mới nhờ, dậy đi.
Vân uể oải ngồi dậy đáp :
-Bác chờ tôi một chút .
-Anh khoác thêm cái áo của em cho đỡ lạnh. Thanh cởi áo đang mặc khóac lên người Vân nói thêm:  Anh yên tâm, hai đứa tôi ôm nhau ấm chán.
Vân lầm lũi bước về chòi ông chủ thầu, không hỏi gì thêm.
Bên cạnh đèn dầu, Y Đhen đang nhấm nháp ly rượu chanh  Hà Nội. Thấy Vân vào, hắn lịch sự giơ tay bắt.
-Mời thầy ngồi  xuống  đây làm một ly.
-Tôi uống kém lắm, chỉ một ly là đỏ từ đầu đến chân. Đi không nổi.
-Thế thì thôi, hôm nay tôi có cái này bất ngờ dành cho thầy đây. Thầy đi theo sẽ rõ. Ta đi nào!
Đêm tối mịt mù, đường núi lởm chởm đá, cách nhau hai mét nhìn không thấy gì ngoài cây rừng. Ánh đèn pin chỉ đủ soi một khoảng trống nhỏ nhoi. Vân thập thững bước theo được một đoạn ngã oạch, trán va vào cây rừng  đau điếng, nước mắt muốn ứa ra. Y Đhen  quay lại cười:
-Nhà báo dở quá, đường rộng thế này mà con ngã .
Có ai túm tay lôi Vân đứng lên; lúc này anh mới biết phía sau anh một quãng còn có mấy tên Phun-rô lặng lẽ bám theo. Chẳng lẽ chúng định giết anh? Không, nếu chúng muốn giết đâu cần phải bày trò thế này. Hay chúng cần gì ở anh? Loanh quanh gần hai giời đồng hồ  mới tới một chiếc lán dựng tạm, một mái, rộng khoảng chục mét vuông, nền  được lát bằng những cây lồ ô bổ đôi, ba phía che bằng mấy tầu dừa núi.
-Mời thầy giáo vào “nhà”.
Vân bước vào nhà và giật mình nhìn thấy người phụ nữ, hay đúng hơn một xác phụ nữ nằm sát vách. Ánh lửa leo lắt lúc sáng, lúc tối hắt lên khuôn mặt hốc hác, xanh xao, đượm vẻ sầu não.
-Thầy lại gần xem có quen người này không?
Vân bước lại gần, tháo loa đèn pin cho ánh sáng tỏa ra chung quanh, nhìn vào khuôn mặt chỉ còn da bọc xương, trên trán lòa xòa  mấy sợi tóc lưa thưa khe khẽ rung theo hơi lửa phả qua. Nguơi con gái mở mắt, hai giọt nước long lanh trào qua khóe mắt, môi mấp máy:
-Nai * Vân !
-Cô là ai, sao lại biết tôi?
Bàn tay nhăn nheo chỉ còn da bọc xương từ từ rút ra khỏi tấm mền giơ lên run rẩy nắm chặt tay Vân áp vào má mình, đôi môi mấp máy, thì thào:
-         H’Ren đây, thầy không nhận ra em sao?
-         Trời, H’Ren!
Vân kêu lên như không tin ở tai mình, mắt mình. Cô học trò nhí nhảnh, thông minh nhanh nhẹn, hay tìm cách trêu ghẹo thầy ngày trước đây sao? Vào cái tuổi mười lăm em như một nụ hoa đầy sức sống, thế mà giời đây…
-         Các bạn em ở đâu ?
-         Theo Yang ** cả rồi !
H’Ren nghẹn ngào, nước mắt chảy thành dòng nhỏ xuống sàn. Vân cũng thấy mọi vật chìm dần, chìm dần vào biển sương mù  dày đặc. Vân không khóc được, chỉ ngồi bất động nắm chặt tay H’Ren để mặc cho vị mặn chát chảy xuống miệng.
  -Nhà báo mềm yếu quá, như vậy không thể trở thành chiến binh được. Người lính phải xem thường cái chết, có thể mới giải phóng đất nước Đê-ga tươi đẹp này. Giới thiệu  với thầy giáo đây là bà Thiếu tá H’Ren quận trưởng  H. 6 một sĩ quan dũng cảm của chúng tôi. Bà ấy bị sốt rét quật ngã đấy.
-         Tại sao các ông không chạy chữa cho cô ấy.
-         Chính vì việc đó, tôi mới mời thầy đến đây. Thầy qua bên này.
Vân gỡ tay H’Ren đặt trả lại trong mền.
Bên kia bếp lửa, chai rượu chanh được bật nắp, bên cạnh đặt tàu lá chuối với mấy miếng thịt nai khô to bằng ngón chân cái, dài độ gang tay.
Y Đhen vui vẻ bảo:
-Mời thầy làm một hớp cho ấm bụng.
Nói là làm, Y nâng cả chai kê vào miệng tu một hơi dài, rồi đặt chai xuống sàn xé thịt nhai nhồm nhoàm, hất hàm bảo:
-Uống đi chứ!
Vân cũng cầm chai nhấp một ngụm nhỏ xong xé thịt nhấm nháp. Thịt nai hăng hăng mùi khói xen mùi thum thủm vì phơi không được nắng, xung quanh miếng thịt trứng ruồi đẻ trắng hếu.
-Nói thật với thầy – Đôi mắt Y Đhen lóe sáng chiếu thẳng vào mắt Vân.  Bọn tôi cái gì cũng thiếu thốn, nhất là thuốc men, lương thực và tư trang. Thầy có cách gì giúp được chúng tôi không?
Im lặng một lúc, Vân nói:
-Theo tôi, ngày mai các ông nhờ ông chủ thầu mây chở hẳn cho một xe lương thực và tư trang vào đây chắc là được.
          -Thầy nói nghe dễ nhỉ. Nếu bắt nó chở nhiều lỡ nó bỏ không vào, lại báo Công an thì nguy.
-Dễ thôi, ông báo với họ chở đồ vào, một mặt cho họ tự do khai thác song mây trong vùng, không ai làm khó dễ; một phần lấy quế, sừng nai phụ thêm một chút. Mặt khác giữ chủ thầu mây lại là yên tâm. Còn chở lương thực vào nhiều giải thích dễ ợt: có nhiều người lấy song mây phải cần nhiều lương thực, quần áo, chăn màn... vậy thôi.
-Hay! Hay, thế mà tôi không nghĩ ra – Nhưng … e.
Cặp mắt hắn tối lại, nhìn chòng chọc vào Vân.
-Nếu bọn Công an biết, theo vào đây có phải ta tự sát không?
-Theo tôi, khi xe vào khu vực các ông kiểm soát, tăng thêm trạm quan sát và vào một điểm nhất định nào đó chặn xe lại kiểm tra rồi cho rẽ theo đường đến chỗ cất đồ dự trữ tạm thời, sau đó vận chuyển tiếp đến nơi an toàn cất giấu. 
-Được.
Nói dứt lời y lại vớ lấy chai rượu ngửa cổ làm một hơi dài.
-Thầy giỏi lắm, ở lại với chúng tôi chứ!
-Tôi không thể đi với các ông được vì tôi là người Kinh, còn vợ, còn con. Nhưng nếu cần gì cứ gọi tôi sẽ đến.
-Thế cũng tốt.
Vân bước  lại bên H’Ren, thấy mắt cô vẫn mở nhìn trân trân vào khoảng không. Đặt bàn tay lên chiếc trán nóng bỏng, Vân khẽ gọi:
- H’Ren! H’Ren!
H’Ren từ từ quay lại, đôi mắt ráo hoảnh nhìn sâu vào mắt Vân. Môi mấp máy  nói điều gì nghe không rõ. Nhúng chiếc khăn mùi xoa vào dòng nước rót từ trái bầu khô, Vân gấp lại đặt lên trán H’Ren, cô học trò bé bỏng ngày xưa đã cùng tám cô bạn gái bỏ lớp chạy vào rừng theo Phun –rô. Kết cục chỉ còn lại một người như thế này đây.
-         Thầy! – Tiếng H’Ren nghẹn ngào:  Hãy tha lỗi cho em!
Gỡ tay H’Ren, Vân vội vã quay đi như chạy …

*      *
*

Ngọn lửa bập bùng  soi rõ những khuôn mặt ngồi vây quanh. Họ ngả nghiêng bên những chiếc chai vứt chỏng chơ, tay huơ huơ những xiên thịt nai chưa kịp hơ qua lửa. Họ nhồm nhoàm nhai, nuốt, uống... như chưa từng được uống, chưa từng được ăn. Những khuôn mặt đen thui chỉ thấy hố mắt trũng sâu với xương gò má in nét lên da.
Chếnh choáng, Y Đhen xách chai rượu bước lại gần Vân:
- Tất cả nghe đây, có ngày hôm nay là nhờ công của ông thầy giáo đây. Sư đoàn 272 chúng ta đã vững mạnh. Ngày mai sẽ cấp thêm quần áo, giày dép mỗi người một bộ. Lương thực dự trữ đủ dùng cho cả chục năm. Chúng ta sẽ thắng. Nào, xin chúc mừng, chúc mừng!
-H’Ren đâu? Vân hỏi.
-Bà thiếu tá H’Ren, người phụ nữ dũng cảm đã có công lao to lớn gây dựng phong trào. Sau này đất nước giải phóng chúng ta sẽ khắc tên vàng cho bà ta. Hôm nay vì con ma rừng đã chấm nên không thể giữ bà ấy lại được nữa. Tôi cho bà ấy đi theo Yàng rồi.
-Không, cô ấy còn có thể khỏe lại mà. Có thuốc sẽ khỏi thôi.
-Thuốc dành cho người khỏe. Ở đây chỉ có ra lệnh và chấp hành. Nào uống đi.
-Uống, uống!
Cả sư đoàn 272 chỉ có 14 người, mười bốn con người đói khát, bệnh tật sống chui lủi trong rừng, thỉnh thoảng mò ra các buôn gần rừng đánh lén cướp của, giết người, đốt nhà... tội ác chồng chất; người dân căm hận, không ai tiếp tế cho nữa. Vì thế chúng phải chui vào rừng sâu làm rẫy mong bảo toàn lực lưỡng. H’Ren, cô thiếu nữ 21 tuổi sau sáu năm chạy vào rừng không biết đã gây ra những tội ác gì cho người dân lương thiện trong vùng, lại bị chính đồng bọn thanh toán. Vân bất giác thở dài.
Phương đông ửng hồng, bữa liên hoan mừng chiến dịch hậu cần thắng lợi, ngoài một tên lính gác theo quy định, còn tất cả được uống thả giàn, uống đến say sưa, nôn mửa... uống đến lúc thịt da biến thành rượu mới thôi. Bao nhiêu năm mới có một bữa liên hoan vui vẻ thế này. Bọn lính nằm còng queo bên đống lửa đã lụi. Đứa ngã bên này, đứa ngã bên kia nhưng trước ngực luôn luôn có khẩu AR15, cái vật giết người đó như dính chặt vào chúng không thể rời ra. Vân lóp ngóp bò ra sau gốc cây cách xa đống lửa, vịn vào gốc cây đứng dậy, lần từng bước.
-Đứng lại!
Một tiếng thét vang lên từ ngọn cây trên đỉnh đầu Vân. Vân ngửa mặt nhìn lên trả lời:
-Vân đây! Sáng rồi, xuống làm chút cho ấm bụng. Mọi người say cả, chỉ có mày là đói thôi đấy. Thấy tên lính còn ngần ngừ. Vân tiếp :
-Không sợ chỉ huy la đâu, tôi nói cho.
Tên gác tụt xuống, đứng chưa vững đã bị giáng một đòn vào gáy, đổ xuống như cây chuối. Khẩu súng đeo sau lưng cướp cò nổ rung chuyển cả núi rừng. Bọn lính hoảng hốt chồm dậy, loạng choạng định lao vào rừng; nhưng những bóng áo xanh từ sau các gốc cây lao vào quật ngã chúng. Cái “sư đoàn 272” của bọn Phun-rô bị xóa sổ hoàn toàn. Tên Y Đhen trợn tròn mắt kinh ngạc nhìn viên Trung tá Công an chỉ huy trận đánh ôm chầm lấy người thầy giáo khi gặp lại. Hắn bất giác thở dài, cúi đầu lầm lũi bước theo đồng bọn.

Hai tháng sau, khi mùa thu đến, tiếng trống trường vang lên đón học trò vào năm học mới, người ta lại thấy Vân – người thầy giáo đi hái mây ngày nào cắp cặp bước lên bục giảng giữa tiếng nói cười của các em học sinh người thiểu số vây quanh.

ĐỌC TẬP THƠ “ƯỚC MƠ NHÀ RÔNG của NGUYỄN XUÂN DƯƠNG - CHƯ YANG SIN SỐ: 307 - THÁNG 3 NĂM 2018





Đọc thơ Đỗ Toàn Diện viết về vùng đất Tây Nguyên ta như nghe tiếng voi gầm gió hú vang vọng gọi đại ngàn, như nghe tiếng cồng chiêng rền âm trong những ngày lễ hội, nhìn thấy những mái nhà Rông như mũi lao lao vào trời thẳm mà ở đó “Những chàng trai Êđê giáo mác sáng ngời. Bắp cuồn cuộn ngực căng như cánh ná”; ta nhìn thấy những cơn mưa từ đất tưới tắm cho những cánh rừng cà phê bạt ngàn, ngửi thấy mùi men rượu cần nồng ấm phả lên từ trong những cái ché đã nhuốm màu thời gian bên những bếp lửa bập bùng, mùi cà phê Ban Mê thơm đắng mà ngạt ngào. Không những thế ta còn nhìn thấy cả nếp suy tư trăn trở hiện lên trên thớ gỗ của những pho tượng nhà mồ. Nói khác đi cả một vùng cao nguyên mênh mông đang bừng dậy trong thơ Đỗ Toàn Diện. Phải có một tình yêu đắm say và máu thịt với vùng đất cao nguyên Đỗ Toàn Diện mới có thể viết được những vần thơ giàu nhân hậu nhiều yêu thương và cũng rất nhiều chất trí tuệ.
Khi đọc Ước mơ nhà rông, tôi cứ nghĩ rằng Đỗ Toàn Diện phải là đứa con của vùng đất cao nguyên đứt ruột đẻ ra rồi nuôi anh khôn lớn bằng hạt ngô củ sắn bằng tất cả sự chở che đùm bọc. Vùng đất này đã bồi đắp cho tâm hồn anh lộng gió thi ca. Nhưng không! Anh là người con của xứ Thanh anh hùng đã vào đây sinh cơ lập nghiệp. Lý giải về thơ anh chỉ có thể dùng bốn từ Tình yêu cuộc đời.
Thơ Đỗ Toàn Diện rất giàu hình tượng. Tôi nghĩ hình tượng trong thơ anh được hình thành từ nhiều yếu tố: Tài năng và trí tưởng tượng, cộng vào đó chính là hình tượng của vùng đất này. Vùng đất của đại ngàn gió và nắng của những con người dũng cảm bất khuất.
Ước mơ nhà rông hay là khát vọng? Theo tôi đúng hơn phải là khát vọng. Như nhà thơ đã viết:
“Nhà Rông, nét văn hóa Tây Nguyên vẫn muôn đời tồn tại.
Lưu giữ cho đời mơ ước của nghìn năm”
Tôi sững sờ khi bắt gặp câu thơ:
“Mơ ước ngàn đời bay tới những vì sao
Nhà Rông như mũi lao, lao vào trời thẳm”
Ta nghĩ gì về câu thơ giàu hình tượng và ước mơ đó. Khi ta nhìn trực diện thì nhà Rông có hình tượng của lưỡi rìu như đang vung lên trời cao. Nhưng sao Đỗ Toàn Diện lại coi đó là mũi lao. Không hiểu sao tôi cứ đinh ninh rằng lần đầu tiên đến với Tây Nguyên anh được nhìn thấy nhà rông từ phía hồi nhà. Ở góc nhìn đó thì nhà Rông có hình tượng của cây lao vĩ đại đang vươn lên lao vào trời thẳm. Hình tượng ban đầu ấy đã nhập vào hồn nhập vào óc chàng trai trẻ đi khai mở. Để đến bây giờ nó trở thành một thi ảnh độc nhất của anh về nhà Rông. Trong cái nhà Rông tụ hội biết bao những gì là ước mơ và khát vọng phải nhờ đến mũi lao kia chuyên chở để gửi gắm thông điệp cho trời cao “Gửi lòng mình đồng vọng hồn chiêng”về khát vọng ngàn đời được sống trong thuận hòa ấm no hạnh phúc .
“Dấu chân thời gian” Cái dấu chân vô hình nhưng sao vẫn ghi khắc vào cuộc đời ghi khắc vào tâm hồn thi nhân dấu khắc chẳng thể xóa nhòa:
“Từ ngàn xưa vẫn đầu trần chân đất
Tôi tìm tôi dĩ vãng luân hồi
Gùi nước lòng khe hái gió đỉnh trời
Đánh thức đá cất lời huyền thoại”
Không có một trí tưởng tượng mãnh liệt, không có một bộ óc quan sát bằng tất cả trí tuệ và cảm xúc tôi tin Đỗ Toàn Diện sẽ không có câu thơ kỳ vĩ “Gùi nước lòng khe hái gió đỉnh trời”. Một câu thơ ấy thôi đã sừng sững trước mắt ta trong tâm khảm ta về hình tượng vĩ đại của con người Tây Nguyên. Người dân Tây Nguyên sống thuận hòa bên nhau đã ngàn đời nay và bây giờ vẫn thế:
“Âm hưởng chiêng bằng làm căng nhịp thở
Ché rượu cần rung bếp lửa đêm nay
Mọi người nối vòng xoang trong tay
Đêm vũ hội đất trời nghiêng ngả”
Nói về đàn Tơ rưng và dấu khắc thời gian của bàn chân trần người dân nơi đây Đỗ Toàn Diện đã viết:
“Khoét ống lồ ô để nghe hồn của gió
Dấu chân trần đã hóa thạch thời gian”
Đàn Tơ rưng chính là cây đàn của gió. Cũng đã rất nhiều dân tộc mượn gió trời để ngân lên những khúc nhạc của dân tộc mình, quê hương mình. Nhưng có lẽ đàn Tơ rưng là loại nhạc cụ độc đáo nhất của đất nước này.
Dáng núi, dáng sông, dáng người, dáng đồ vật, dáng các nhạc cụ đã bừng lên trong bài thơ Trên cầu treo Buôn Đôn của Đỗ Toàn Diện:
“Vùng đất Buôn Đôn huyền bí thiêng liêng
Còn ấp ủ trong vỏ bầu ,miệng ché
Những dũng sỹ săn voi đã tạc vào dáng núi
Khắc lên tượng gỗ nhà mồ”
Một lần nữa Đỗ Toàn Diện lại nhắc đến những nhạc cụ độc đáo nhất:
“Họ thổi hồn vào những ống lồ ô
Và chắt lọc âm thanh từ ruột đá”
Chỉ có sự kiên trì nhẫn nại của người dân Tây Nguyên mới có thể chắt lọc âm thanh từ ruột đá để làm vui làm đẹp cho đời.
Rồi ông khẳng định khí phách hồn cốt của người dân Tây Nguyên cũng chỉ bằng hai câu thơ:
“Cứ hồn nhiên như hình sông dáng núi
Đây Buôn Đôn huyền thoại mãi trong đời”
Trong bài Buôn Đôn huyền thoại, Đỗ Toàn Diện đã có những câu thơ thật kỳ vĩ để nói về lòng quả cảm dũng mạnh của người dân Buôn Đôn:
“Mặt trời vỡ trên lưng
Da sắt lại những bắp cơ cuồn cuộn”
Và nữa cảnh tượng thật hùng vĩ và cũng rất nhiều phi lí, hư ảo:
“Chiều Buôn Đôn trầm tư
Đàn voi cõng tiếng cồng đi qua thời gian”
Bình minh trên cao nguyên là một bài thơ đẹp – đẹp đến vô ngần. Tôi không thể bình luận gì thêm chỉ biết chép vào đây để các bạn cảm nhận cho hết vẻ đẹp kỳ ảo của vùng đất Tây Nguyên dưới cặp mắt ấm áp đắm say của Đỗ Toàn Diện:
“Mặt trời mọc dưới chân tôi
Tiếng gà đạp dưới lưng đồi bước lên
Kéo bình minh nhích gần thêm
Xuyên qua những đám sương mềm dần tan
Cao nguyên như được vén màu
Màu xanh huyền thoại vắt ngang đỉnh trời
Thác gầm tung bọt sáng ngời
Ngàn thông như mác dựng trời đứng lên”
Còn đây là Gió trên đỉnh tây nguyên của Đỗ Toàn Diện. Thơ ông đã quá đẹp và quá đủ đầy nên một người vẫn tự cho mình nghèo nàn trong ngôn ngữ chẳng thể bình luận thêm gì nữa. Tôi chỉ làm được một việc duy nhất là sao chép những câu thơ hay vào đây cho những ai chưa có may mắn đọc thơ ông để cùng tôi cảm nhận:
“Ta đứng trên đỉnh trời
Nhìn Cao Nguyên cuộn vỗ
Những nổi chìm của gió
Rùng rùng sóng trùng khơi .
…..
Chỉ có gió và gió
Thổi bạc phếch mái đồi
Đàn voi đi ngang trời
Nhuộm bụi hồng tiền sử
Đường lên trời đi nghiêng
Những mảnh đời lầm lũi
Họ gùi gió lên núi
Họ cõng mây về trời”
Cuối cùng tôi muốn nói đến bài thơ DÁNG TƯỢNG NHÀ MỒ. Tôi nghĩ nếu không am hiểu nền văn hóa Tây Nguyên – một nền văn hóa thấm màu huyền thoại – và không có một cảm nhận sâu sắc về hình tượng nghệ thuật mà khát vọng của người dân Tây Nguyên gửi gắm vào những pho tượng nhà mồ thì Đỗ Toàn Diện không thể có những vần thơ như một sự hóa thân vào một nền văn hóa như thế. Đây là một bài thơ nhiều trăn trở:
“Da mật nhuộm màu nắng gió
Bó gối mắt vương nỗi sầu
Suốt đời quẩn quanh bên lửa
Vui buồn cần rượu vít cong
Nỗi niềm khắc vào thớ gỗ
Mắt quầng hun hút nỗi đau
Chống cằm nhìn vào vô vọng
Nổi chìm chẳng biết vì đâu”
Vẫn còn rất nhiều bài thơ và câu thơ rất hay rất đáng để ta chiêm nghiệm. Nhưng đã đến lúc tôi phải dừng lại để nhường cảm nhận cho những ai may mắn có được trên tay tập thơ ƯỚC MƠ NHÀ RÔNG của Đỗ Toàn Diện. Xin thành tâm chúc nhà thơ giàu sáng tạo để viết về vùng đất Tây Nguyên mà tác giả yêu với tất cả tình yêu đắm say máu thịt của mình.