Người dưới xuôi
thường nói “học vẹt” hay “nói như vẹt” để chỉ những người học thuộc bài mà
chẳng hiểu gì điều mình đã học, hay là kẻ nói nhiều mà thôi; điều đó thật oan
uổng cho dòng họ nhà tôi lắm. Đừng thấy chúng tôi có thể bắt chước được tất cả
giọng nói của muôn loài mà tưởng “chỉ biết bắt chước” đơn thuần, không suy
nghĩ, như vậy là nhầm to đấy. Nếu không thông minh chịu khó học hỏi thì không
bao giờ có thể hiểu được tiếng của muôn loài, kể cả con người. Chúng tôi có thể
nói: “Nhà có khách, nhà có khách...” mỗi khi có người lạ đến nhà. Thấy trẻ em
nghịch ngợm thường hỏi: “nghịch gì đấy! nghịch gì đấy!” vv… Nghĩa là chúng tôi
biết phân biệt ý nghĩa của từng câu nói đã học và không bao giờ nhầm lẫn; điều
đó chứng tỏ rằng họ hàng nhà chim K’tia chúng tôi thật sự có biệt tài trong
việc học ngoại ngữ. Nói như vậy không có nghĩa, họ hàng chúng tôi không cần
học, hay ít học cũng biết được đâu mà ngược lại, việc học tập phải chuyên cần,
vất vả lắm. Nếu không tin mời bạn đến thăm quê hương tôi nhé!
Dòng họ chim Vẹt mà người
Tây Nguyên bản địa thường gọi một cách thân thiện là chim K’tia. Chim K’tia
sống ở nhiều quốc gia trên thế giới và loài người biết thuần dưỡng chúng tôi từ
rất lâu rồi. Màu lông họ hàng nhà K’tia cũng khác nhau do sống những vùng khí
hậu khác nhau: lông màu trắng, màu vàng, màu đỏ và màu xanh biếc... Mỗi màu
lông có vẻ đẹp riêng của nó. Ở Việt Nam sống trong môi trường hoang dã, loài
K’tia chỉ có chung một màu áo xanh. Họ hàng K’tia ở Tây Bắc to lớn hơn loài
K’tia miền Trung và Tây Nguyên. Ở cao nguyên Đắk Lắk có hai dòng khác biệt
nhau, một dòng thuộc loại to lớn, thân hình phải bằng quả bắp; một dòng nhỏ bé
hơn chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái người lớn một chút – dòng họ này hiện nay còn
ít, chủ yếu sống ven bờ sông lớn và khe suối sâu. Tôi không dám mời bạn làm một
cuộc du lịch thám hiểm họ hàng loài K’tia chúng tôi trên khắp thế giới mà chỉ
muốn mời bạn tới thăm gia đình tôi – loài K’tia lớn sống trên mảnh đất Tây
Nguyên hùng vĩ.
*
**
Dạ! Xin được giới thiệu với
bạn về cuộc sống gia đình tôi ở Tây Nguyên.
Cứ mỗi độ xuân sang khi
những hạt mưa cuối cùng còn sót lại trên bầu trời rụng xuống mặt đất, nhường
chỗ cho ánh nắng chan hòa rải khắp nơi là lúc K’tia tách bầy làm tổ. Từng đôi
uyên ương dắt nhau đi tìm cây làm nhà. Thường thường tiêu chuẩn tối thiểu của
cây được chọn xây tổ là cây còn sống hoặc cây khô còn vững, thân to lớn; xung
quanh cây phải thoáng, không có hoặc ít có cây lớn mọc gần. Tiêu chuẩn này họ
hàng tôi thường chọn cây lồng bàn - một loài cây có lá gần giống lá bàng, mọc
lẻ loi trên các đồi cỏ gianh ở Tây Nguyên. Tìm được cây vừa ý đôi uyên ương
phải chọn cành để làm bức chắc phía trên cửa ra vào. Cành được chọn phải to,
hơi nghiêng để nước mưa hay sương đêm
không lọt vào tổ.
Với cái mỏ rắn chắc như thép, ba má tôi thay nhau đục
thân cây phía dưới cành to thành một lỗ tròn như quay bằng com pa sâu vào thân
cây tới nửa sải tay. Phía trong bao giờ cũng rộng có thể đủ chỗ cho bốn năm má
con cùng chung sống, được lót một lớp dày các sợi cây mềm. Chiều xuống, ba tôi
thường đứng ngoài cửa canh chừng kẻ thù. Loài K’tia đẻ hơi nhiều, một tổ bao
giờ cũng có từ bốn đến năm quả trứng, to bằng ngón út tay người, màu xanh có
đốm đỏ.
Tôi sinh ra trong một gia đình có bốn anh chị em, Ba tôi
vất vả bay ngược, bay xuôi lo đủ miếng ăn cho cả nhà. Má tôi vừa canh chừng kẻ
trộm vừa phải luôn miệng trả lời các câu hỏi của anh em tôi. So với anh chị,
tôi là người nở ra sau cùng nên bao giờ cũng bé hơn, song không vì thế mà được
chiều chuộng hơn đâu. Tôi vẫn phải theo học như các anh chị. Từ bài học đầu
tiên về chữ o tròn như quả trứng… K’tia, đến cách phát âm chữ cái, cách chào
hỏi xã giao vv… và vv… có nghĩa là tất tần tật mọi thứ trên đời đều phải học.
Từ mờ sáng cho đến lúc mặt trời đi ngủ, má tôi bắt chúng tôi học ra rả cả ngày.
Vì thế, ai đến cách gốc cây có gia đình tôi ở chừng trăm mét cũng biết nhà tôi
ở đâu rồi.
*
**
Cuộc sống gia đình tôi tuy thanh bình vậy
nhưng cũng gặp vô vàn khó khăn, nguy hiểm, nhiều lúc cái chết rình rập ngay bên
cạnh. Tôi nhớ hôm đó trời mới vừa sáng được một lúc, ba tôi đi làm chưa lâu;
bỗng nghe tiếng má la thất thạnh ngay ngoài cửa:
-
Cướp!
Cướp! Cướp!
Tôi định thò đầu ra cửa xem có chuyện gì xảy ra mà ầm ĩ
như thế liền bị anh Hai dùng mỏ giáng cho một cú vào đầu ngã lăn quay. Nhìn vẻ
mặt nghiêm trọng của anh và chị, tôi không dám hé môi kêu khóc như mọi bận bị
bắt nạt. Bỗng một mùi hôi nồng nặc phả vào, một cái lưới dài ngoằng thọc vào
cửa. Anh tôi vội vã xô tôi ra sau, còn mình hiên ngang bước lên phía trước cửa
đón kẻ thù. Con quái vật đầu bẹp, mắt nhỏ tí tẹo, có cái lưỡi dài ơi là dài, từ
từ xông vào nhà; chậm rãi nhích từng tí, từng tí một. Chị tôi thét lên một
tiếng té xỉu. Còn anh Hai tôi cố xù mấy chiếc lông măng mới mọc ở cổ, cất cao
đầu giơ cái mỏ bé tẹo lên định lăn xả vào quái vật. Con quái vật bò qua cửa lọt
vào nhà nhằm anh tôi trườn tới. Tôi sợ quá nhắm tít mắt, không dám nhìn sự việc
đang diễn ra... Ngoài kia tiếng má tôi kêu khóc thảm thiết, tiếng mấy bà hàng
xóm hò hét om sòm. Bỗng tiếng ba tôi thét lên:
-K…é…t!
Cùng lúc, con quái vật oằn mình đau đớn, phun ra một búng
nước tanh ngòm về phía chúng tôi rồi vội vã lùi ra khỏi cửa. Tiếng la hét:
“Két! Két!” vang lên của các bác, các chú láng giềng đang kịch chiến với con
quái vật náo động cả không gian. Anh tôi quay lại nói như xin lỗi:
- Đừng giận anh chuyện lúc nảy nhé! Lần sau nếu có chuyện
gì em… đừng… có… ra… ngoài. Ba… đứa… phải… nghe… lời… ba… má!
Giọng anh đứt quãng, rồi lịm dần. Chị tôi gào lên:
- Ba má…ơi!
Tôi lao ra định ôm lấy anh. Anh xua tay:
- Không… đụng… và...o a…nh!
Anh lảo đảo bước ra cửa, chị em tôi chạy theo ra và bóng
anh vuột biến mất cùng với tiếng thét hãi hùng của mẹ:
-
Con
ơi!
Đau thương tang tóc trùm lên gia đình, làng xóm. Sinh
được người con đã khó, giữ cho chúng khôn lớn, trưởng thành càng khó hơn.
Thoáng chốc kẻ thù đã cướp mất người anh yêu quý của chúng tôi tôi, người đã
dũng cảm mang thân đón nhận chất độc vào mình và ra đi vĩnh viễn để cho các em
được sống. Má tôi ốm liệt giường, tất tật mọi việc nhà cửa nhờ cậy vào ba. May
có mấy bác hàng xóm thay nhau giúp đỡ chứ không biết rồi sẽ ra sao.
*
**
Lại một lần
khác, khi ấy ba anh chị em chúng tôi đã khoác trên mình bộ quần áo truyền thống
của gia đình, dòng họ một màu xanh đặc trưng. Mỗi khi chiều về, ba má đậu trên
cành cây trên miệng tổ cổ vũ anh chị em tôi bước ra ngó trời xanh, đồng cỏ
tranh và tập vỗ cánh. Chà, thật thú vị khi lần đầu tiên được đứng trên thành tổ
để giang đôi cánh nhỏ bé khẽ vỗ vào không khí, tạo nên một ngọn gió nhè nhẹ.
Đôi cánh vỗ nhanh hơn, hình như gió cũng lớn hơn, tạo nên cảm giác lâng lâng
khó tả.
Anh chị em tôi lớn lên, cũng là lúc ba má phải đi xa tổ
lâu hơn để kiếm thức ăn cho cả nhà. Anh Ba thành “đại ca”, luôn nhận nhiệm vụ
đứng ngoài cửa canh gác kẻ gian. Hôm nào trước lúc đi xa, ba má cũng dặn không
được bước ra cửa tổ khi không có người lớn ở nhà. Nhưng tôi thấy mình lớn lắm
rồi, sắp biết bay rồi nên cần phải học bay nhiều hơn nữa nên năn nỉ anh chị cho
bước ra cửa tập luyện. Chị Tư cáu:
-Út quên lời ba má dặn à?
-Ngoài kia nguy hiểm lắm, không ra được đâu. Chịu khó chờ
ba má về rồi tính.
Anh Ba cũng đồn tình với chị Tư, ngăn cản không cho tôi
bước ra. Tôi vùng vằng, tỏ vẻ khó chịu:
-Anh chị nhát như con dế thế kia thì bao giờ làm người
lớn được? Ngoài ấy có gì mà đâu sợ cơ chứ. Chúng ta sắp biết bay rồi đấy, cho
em ra ngắm trời đất buổi trưa một chút thôi.
Hình như nghe tôi năn nĩ quá, anh Ba thôi không nỡ chối
từ, giọng hơi buồn, bảo:
-Út đã nói vậy thì để anh ra cửa ngó xem thế nào đã nhé.
-Anh ba đừng đi, không chiều Út như vậy được đâu, về ba
má mắng đấy.
-Rõ đồ đàn bà thấy cái gì cũng sợ. Ba má không biết đâu,
cứ cho Út ra cửa một chút rồi vào nhà ngay mà.
-Lớn bằng này rồi mà còn không nghe lời ba má thì có lúc
hối không kịp đấy.
-Chị làm cứ như có con rắn nằm phục ở cửa chờ bắt anh chị
em mình không bằng ấy. Nếu chị sợ để em ra một mình.
-Thôi, hai đứa đừng cãi nhau nữa, để anh ra trước xem
sao.
-Không được đâu anh Ba!
-Một lần thôi nhé Út.
-Dạ. Hoan hô anh Ba!
Anh Ba bước từng bước có vẻ nặng nề lắm ra cửa, tôi bám
ngay phía sau, lòng vui phơi phới vì thuyết phục được ông anh cho ra cửa chơi.
Chị Tư nằm trong tổ nói với theo:
-Cả hai anh em không nghe lời ba má dặn, hối không kịp đó.
Tôi quay đầu lại, xù lông cổ lên, đập mỏ vào thành tổ trả
lời:
-Đàn ông mà bà chị!
Anh Ba đi trước chắn gần hết cả khuôn cửa tròn, tôi rón
rén bước theo sau, đi dần ra cửa tổ. Nhìn phía dưới bụng anh Ba, ánh sáng ùa
vào, tôi thấy một mảnh trời xanh nho nho nhỏ phía xa xa; bụng thầm reo lên: ta
được thỏa ý nguyện rồi. Anh Ba bước chậm lại, hình như sợ hãi điều gì ấy, nói nhỏ:
-Đứng ở đây để anh ra ngoài xem thế nào đã nhé.
-Dạ!
Tôi, dừng lại không đi tiếp dù chỉ còn mấy bước nữa ra
đến cửa. Anh Ba từ từ thòa đầu ra ngoài cửa ngó xung quanh.
Ào. Một cơn gió to như bão ào đến thổi tôi rơi lộn ngược
vào trong tổ, đè luôn lên chị Tư. Ngoài cửa, anh tôi thét lên môt tiếng hãi
hùng, liền sau đó là tiếng gào thét của mấy bác hàng xóm vừa về đến. Trận kịch
chiến diễn ra ngắn ngũi, tiếng hò hét xa dần rồi mất hẵn.
Sau này tôi mới được nghe kể lại, hôm đó có mụ Diều Hâu
đứng phục sẵn trên ngọn cây cách cây gia đình tôi làm tổ không xa, anh Ba vừa
ra khỏi cửa bị mụ ta lao xuống, dùng bàn chân có những vuốt dài, quắt chặt đầu
anh Ba, lôi ra khỏi cửa, tha đi luôn...
Tôi giận mình, tự dày vò, xỉ vã mình, bỏ cả ăn uống,
không dám nhìn ai. Chị Tư khóc hết nước mắt nhưng không một lời oán trách tôi,
ba má cũng vậy. Giá như mọi người trừng phạt tôi, la mắng tôi thì dễ chịu hơn;
đằng này...
*
**
Thời gian trôi qua, chị em tôi đã khoác trên mình bộ áo
xanh biếc, nơi cổ tôi có thêm chiếc khăn quàng màu gạch mà cánh phụ nữ không
bao giờ có. Chiếc mỏ cứng cáp màu vàng tươi rắn chắc là thứ vũ khí tự vệ quan
trọng của họ hàng chúng tôi. Chị tôi có chiếc mỏ đen bóng như sừng, bộ váy áo
một màu xanh biếc. Tất cả hành trang của tuổi mới lớn đầy ắp con tim, chờ ngày
tung cánh, hòa nhập cộng đồng.
Cuối cùng, ngày
ấy cũng đến. Đó là một ngày trời trong xanh không một gợn mây. Các ông bố, bà
mẹ trò chuyện râm ran trước khi đưa con vào khai giảng năm học mới. Bài học bắt
đầu bằng những cái vẫy cánh chậm chạp, sau nhanh dần nhanh dần; chị tôi lao vút
ra, chơi vơi giữa trời xanh. Đến lượt mình, tôi cố bình tĩnh tung cánh bay từng
đọan ngắn giữa tiếng reo hò, cổ vũ của cả xóm.
Kể từ hôm đó
ngôi nhà thân yêu chỉ còn trong kỉ niệm, không ai trở lại đó nữa. Tất cả mọi
người trong cái xóm nhỏ - đồi tranh tập hợp đông đến cả ngàn con, bay rợp trời
đến vùng đất mới kiếm ăn. Vừa học vừa lao động kiếm sống nên dòng họ nhà chim
K’tia chúng tôi đi tới đâu ai cũg biết vì những câu chuyện trao đổi không dứt.
Và cái lớp lau nhau vừa mới vào đời lại phải dài lưỡi ra học, học tất cả những
điều cần thiết cho cuộc sống. Họ nhà chim K’tia chúng tôi là vậy đấy. Nếu không
học tập hàng ngày để có thể nói được hàng trăm thứ tiếng khác nhau thì ai còn
gọi họ hàng chúng tôi là “ chim K’tia” có phải thế không bạn!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI